lĩnh gió mưa, sấm sét, ( các loại Ấn dùng làm phép cầu mưa gọi gió )
- Cải biến xuyên sơn trong địa lý, như khai sơn lấp hồ, thu phục mãnh thú, giáng hạ độc trùng, gọi long phục hổ, biến hóa được vạn vật, như có thể biến hoa mộc thành người, hoa quả tự sinh, thống nhiếp tam giới, khiển quỷ triệu thần, phục ma khu tà, diệt yêu tinh tà mị, tích binh trừ hại, bách trùng không phạm đến, phù nguy cứu khổ, cứu tế cô bần, trị bệnh khu tà, tảo trừ ôn dịch, nạp tài chiêu bảo, bảo hộ sanh nhân, bảo vệ lãnh thổ, luyện độ vong hồn, khai u khải minh, trừ thân uế độc, thông đạt chân linh.( trích sách Đạo Giáo Quy Nguyên )
Theo như cách dùng Ấn ở trong sách trên nói thì tương đối rộng, các Ấn Pháp dùng trong các trường hợp cũng không hề giống nhau. Sách ( Thượng Thanh Linh Bảo Đại Pháp quyển số 27 có chép như sau :
Chánh Nhất Pháp Lục thì dùng Cửu Lão Tiên Đô Ấn, Đồng Huyền Pháp Lục thì dùng Thông Chương Ấn, trong các nghi lễ của Đạo Giáo nhất thiết phải có những bài Tấu sớ phù Hịch hoặc thiếp điệp lúc đó thì sử
dụng Linh Bảo Đại Pháp Ti Ấn, Khi cấp sắc cho đệ tử dùng phép cũng dùng đến Linh Bảo Đại Pháp Ti Ấn ( trường phái pháp sư miền bắc còn các phái khác tantric không nắm được rõ lắm nên không dám nói càn )
khi làm Bái Chương thì dùng Thông Chương Ấn, làm những bài cấp thiết tấu cáo thì dùng Hoàng Thần Việt Chương Ấn ( ấn này rất nhiều tác dụng) Khi sử dụng việc triệu hồn thì dùng Thần Hổ Ấn, khi triệu thần
nhiếp quỷ, bạt cứu vong hồn, thì dùng Khu Tà Viện Ấn, các loại Ấn Pháp thường có tác dụng rất là chồng chéo nên khi cần dùng pháp nào thì sẽ lựu chọn Ấn Pháp để làm, ví dụ như Linh Bảo Đại Pháp Ti Ấn ngoài
những pháp kể trên ra Ấn này còn dùng được vào rất nhiều pháp khác.Có những loại Ấn Pháp, công dụng nhiều vô số kể hầu như là có thể làm được mọi việc ví như Lôi Bộ Hữu Lục Phù Bảo Ấn của Thần Tiêu Phái, Ấn này được làm bằng Đá Ngọc Bị Sét Đánh Vỡ ra lấy lõi của Đá đó làm Ấn hoặc dùng Đá Thiên Thạch để làm Ấn.
Cách làm Ấn Pháp cũng khác nhau rất nhiều thường mỗi pháp sẽ có cách làm Ấn riêng không có mẫu số chung ví dụ trong sách Linh Bảo Vô Lượng Độ Nhân Thượng Kinh Đại Pháp quyển 3 có ghi chung chung như sau : Ấn vuông 2 thốn 1 phân, dày 7 phân, dùng bằng gỗ cây Đào có cành quay về hướng Nam mà chặt, Sách Đạo Giáo Quy Nguyên lại ghi Ấn vuông 2 thốn 5 phân, tìm cây Táo mà làm chọn ngày Giáp Tý chế tạo Ấn 1 sách khác nói về Thiên Bồng Ấn như sau : Ấn này vuông 2 thốn 5 phân, dùng thần mộc khắc Ấn, vậy theo như tất cả các sách về Đạo mà nói thì chủ yếu dùng gỗ Táo , Đào làm Ấn, và khắc Ấn nhỏ chỉ khoảng 3 cm mà thôi để tiện cho việc cầm nằm Ấn.
Phương Thức Chế Tạo Ấn
Về phương thức chế tạo Ấn Đạo giáo có hẳn 1 quy định rất nghiêm khắc từ khâu chọn vật liệu cho đến thời gian chế tạo, kích thước của Pháp Ấn, cho đến nghi thức tế Ấn và ý nghĩa của Ấn, nay tantric xin ghi chép ra từ các sách Đạo Giáo Quy Nguyên như sau : Phàm chọn gỗ để khắc Ấn không chọn những cây mà bị gió thổi nghiêng vẹo, chỉ chọn cây Đào, Táo bị sét đánh, có nhiều Sát khí, Sách Linh Bảo Vô Lượng Độ Nhân Đại Pháp Chép thêm là chọn ngày Bính, ngày Đinh để chặt hạ cây, ngày Hỏa Nhật thì đẽo gọt cho thành khối, sau đó chọn hướng Đông Nam mà chôn xuống Đất 7 thốn,đít Ấn thì để lộ trên mặt đất, thoa hương hoa vào Ấn, sau đó quỳ xuống Đất vái 3 lạy, thổi vô Chúc Ngôn chú vào Ấn, ngày thứ 7 thì đào lên, dùng nước sạch rủa hết đất ở Ấn đi, dùng hương bôi tắm cho Ấn, Phục Ấn, sau đó khắc hoa văn lên tay cầm Ấn, chọn ngày đinh rồi quay mặt về hướng Đinh, bước Đinh Hỏa Bộ Linh Cương, khi đó sẽ gặp Lục Đinh Ngọc Nữ, Lại tụng Chú sổ biến, dẫn khí từ khí bộ lên đỉnh đầu tức hoàn thành xong Ấn
*** Cách làm Ấn trên Đây ghi quá vắn tắt cộng thêm không rõ sách nói là Ấn gì loại gì nhưng theo Tantric thì có thể đây là cách khắc Ấn Lục Đinh Ngọc Nữ, Pháp này sẽ có ở những phần sau của bộ sách này, người xem nên lưu ý mà nghiên cứu đối chiếu.
Đạo Pháp Hội Nguyên lại có ghi về nghi thức của Ấn Pháp gồm có Tạo Ấn, Tế Ấn, Khai Ấn, Hành Ấn, Hạ Ấn, Nhập Ấn, cách chế Ấn của sách này lại viết thêm : Dùng gỗ của cây táo, vào ngày Giáp Tý, mùa hạ ngày Bính Ngọ, khắc ấn trong 1 ngày tuyệt đối không được quá, Khai Ấn chú viết như sau:
Thiên ấn linh linh, thiên bồng nguyên suất xá hành, khu tà pháp chủ giam ấn, thiên đinh lực sĩ phụng hành, tà đạo văn chi não liệt, bệnh nhân kiến tắc an trữ, hung ác vi họa giả điệt, từ thiện vi phúc giả sanh, cấp cấp
*** Chú khai Ấn này trong 1 vài trường hợp cũng được dùng khi đóng ấn lên bùa thì niệm khai Ấn này.
Khi khai Ấn cần phải tế Ấn, khi Tế Ấn phải chọn các ngày Giáp Tý, Canh Thân, Tam Nguyên, hoặc Bát tiết dạ tử thời, hoặc ngày mồng 5 tháng 5 mùa hạ thì chọn ngày Bính ngọ để làm 1 bản tấu, chuẩn bị hoa quả,
hương hoa, đèn nến, quay về hướng Bắc Đẩu hạ Ấn , bản tấu trạng dùng để báo cáo với các vị Chu Tam Đại Tướng Quân, Thiên Y trì Bệnh Công Tào Sứ Giả, sau đó tam bái thắp nhang lên lò hương bài tế như sau
Chữ Hán:
臣姓某虔诚上启中天北斗九皇尊帝、天丁力士、三真君、功曹使、
生,樗栎朽质,冒参上法,受庇玄穹,于某年月日投某人门下,拜
受北极天蓬正法,自佩受以来,朝修不常,动违天宪,南宫无纪善
之名,北府有纠非之字。登坛受法之际,对师有约,誓当佐天行化
助国救民,依法命工刊造法印。兹遇吉辰,虔修蘸祭,伏乞上真流
降真气,下入印中令臣佩奉,宣宏道法,所指如心,驱邪治病,获
遂通灵。下副臣修持之愿。臣谨诚惶诚恐,稽首顿首再拜,谨言
Thần tính ........(Tên người đọc ) kiền thành thượng khải trung thiên bắc đẩu cửu hoàng tôn đế , thiên đinh lực sĩ , tam chân quân , công tào sử giả đẩu trung thánh chúng . Thần thảo giới vi sanh , xư lịch hủ chất , mạo
tham thượng pháp , thụ tí huyền khung , vu ....... niên ......nguyệt....... nhật đầu mỗ nhân môn hạ , bái thụ bắc cực thiên bồng chính pháp , tự bội thụ dĩ lai triều tu bất thường , động vi thiên hiến , nam cung vô kỉ thiện chi
danh bắc phủ hữu củ phi chi tự . Đăng đàm thụ pháp chi tế , đối sư hữu ước thệ đương tá thiên hành hóa , trợ quốc cứu dân , y pháp mệnh công khan tạo pháp ấn . Tư ngộ cát thần , kiền tu trám tế , phục khất thượng chân lưu hàng chân khí , hạ nhập ấn trung , lệnh thần bội phụng , tuyên hoành đạo pháp , sở chỉ như tâm , khu tà trì bệnh , hoạch toại thông linh . Hạ phó thần tu trì chi nguyện . Thần cẩn thành hoàng thành khủng , khể thủ đốn thủ tái bái , cẩn ngôn .
Tế xong thì tờ hiến trạng này và tiền mã phải đem cống Thượng Đẩu Chân nguyên Suất, Đại Tiên Thần Tướng, đem Ấn đang lên đàn để báo cáo thần.
Khi dùng các Ấn để trị bệnh tà ma phải tụng Ấn chú như sau:
Can tượng thiên linh , khôn dĩ vận tái , bất đắc vi thời , chu nhi phục thủy Thiên đinh thụ ngô thần ấn , lục giáp vệ ngô thân hình , hà thần bất tòng hà quỷ cảm đương . Ngô ấn chỉ thiên thiên khuynh , chỉ địa địa liệt , chỉ
nhân nhân trường sinh , chỉ quỷ quỷ tuyệt diệt , chỉ san san băng , chỉ thủy thủy kiệt , chỉ vân vân thư , chỉ mộc mộc chiết , chỉ phong phong đình , chỉ vũ vũ hiết , đế quân thụ ngô thần ấn hóa nhiếp , nhữ đẳng hữu
vi ngô lệnh , tứ chi phục chiết , cấp cấp như thiên đế luật lệnh sắc .
sau đó lại tụng dưới ấn chú:
" Tam ngũ đường đường , nhật nguyệt vi quang , âm dương giao hội , tứ thời trung ương , thần ấn nhất hạ , vạn quỷ diệt vong cấp cấp như luật lệnh. ( nếu dùng Ấn đóng lên người lại phải niệm nhập
Thiên đinh lực sĩ nhập thiên ấn , mãnh liệt tà ma hóa tác trần . Cấp cấp như thiên đế luật lệnh sắc.
Sau đó định hơi hít cương khí vào thì muôn và tà tinh không xâm nhập được ( phép này dùng cho bản thân cũng tốt )
( Trích Đạo Giáo Quy Nguyên )
Sách Đạo Giáo Quy cũng chép về cách tạo Ấn như sau : chọn ngày Giáp Tý, dùng lõi cây táo bị sét đánh, chọn ngày mồng 5 tháng 5 hoặc ngày Giáp Tý mùa xuân, mùa hạ thì chọn ngày Bính ngọ để khắc Ấn, khi thụ
trì ấn thì chọn ngày giáp để nhập thất hoặc tịnh thất, sau đó an trí Ấn, làm lễ báo cáo, sau đó thượng hương, rồi làm lễ khai Ấn.
*** Cụ thể lại về những gì các sách đạo giáo nói về cách khắc Ấn Tantric xin tóm lược lại như sau, các đạo sĩ muốn khắc Ấn phải chọn những loại gỗ Đào, Gỗ Táo, Gỗ Bạch Đàn, Gỗ Tùng, Gỗ Bách, thứ tự là như vậy loại Ấn càng quan trọng dùng được những việc lớn thì chọn gỗ Đào, gỗ Táo, còn những Ấn Pháp dùng vào những việc bình thường có thể chọn Bạch Đàn, Tùng , Bách. Ngày tế tự và làm Ấn thường là ngày Giáp Tý mùa xuân, hoặc ngày Bính mùa hạ, có thể chọn thêm ngày mồng 5 tháng 5, ngày làm Ấn thường chọn ngày Canh Thân, kiêng kị người khác dòm ngó thấy, việc làm ấn sẽ gồm có chặt cây thường chọn cành hoặc cây hướng đông nam, khắc Ấn, Tế Ấn, Khai Ấn, Ấn thường được cho vào 1 cái túi nhung hoặc đặt vào 1 hộp gỗ sơn son thiếp vàng để nơi cao ráo. Đó là những nghi lễ chung của việc làm Ấn, còn việc khắc Ấn thì mỗi loại có 1 cách làm và 1 cách khắc riêng tựu chung về những phần chính là như trên đây. Dưới đây là hình thức và công dụng của những Ấn Pháp Quan Trọng của Đạo Giáo, những Ấn pháp này sử dụng hầu hết trong tất cả các pháp của Đạo Giáo kể cả những bí pháp.
*** Cảnh Báo : Tất cả những Ấn Pháp dưới đây đều là sự đại diện cho uy quyền và pháp lực của Chư Tiên, Chư Thánh, cho nên các Ấn ở dưới đây khi chế tạo hoặc làm phải hết sức lưu ý, cũng không nên đem ấn này ra ngoài để làm trò bình phẩm bởi vậy là phạm vào Tiên Chúng sẽ bị trừng phạt rất nặng nề, học giả nghiên cứu nên hiểu điều này mà giữ gìn, bởi tại sao bấy lâu nay không hề thấy có sách hoặc tài liệu hình ảnh về Ấn Pháp là bởi sự kiêng kị này, những điều trên học giả và người nghiên cứu nên nhớ kĩ.
Hình Thức Các Loại Ấn Đạo Giáo
Đạo Kinh Sư Bảo ấn.
Đạo kinh sư bảo ấn: Đạo kinh sư ngọc ấn là đại diện cho cảnh giới cao nhất của đạo giáo, ứng dụng của pháp ấn trong đạo giáo rất rộng và phổ cập, chế tạo ấn chương, dán phát bùa, siêu độ vong hồn, tiễn thần quỷ, khai sáng văn minh
Phật pháp tăng bảo ấn :
Phật pháp tăng ngọc đại diện cho cảnh giới cao nhất của phật giáo, ứng dụng của pháp ấn trong phật giáo rất rộng rãi và phổ cập, chế tạo ấn chương, dán phát bùa, siêu độ vong hồn, tiễn thần quỷ, khai sáng tranh tượng.
Ngọc hoàng ấn :
Loại ấn này tượng trưng cho uy quyền và thần thông của ngọc hoàng đại đế. Loại ấn này cũng là ấn rất quan trọng trong Huyền Môn Đạo Giáo, dùng trong việc thâu binh quỷ, làm sắc lệnh phù, tựu chung là ấn của vị vua cao nhất trong hệ tiên chúng của Đạo Giáo.
Trương Thiên Sư Ấn
Trương thiên sư ấn :
Trị các loại tà ma, bệnh tật. Ấn này còn có tác dụng nữa là để chữa bệnh tà nhập xác, ấn đại diện cho uy quyền của Trương Thiên Sư mọi loài yêu ma quỷ mị khi thấy ấn này đều hết hoảng kinh sợ, ấn được dùng thêm trong những bùa trấn trạch và trừ tà của Trương thiên Sư.
( Xin xem tiếp bài 2 - Thân ái. dienbatn).