Đọc thêm : " LƯỢC SỬ HỌ DƯƠNG VIỆT NAM.
Họ Dương là một trong số những dòng họ lớn ở Việt Nam, có truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm, có mặt trong suốt tiến trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của Dân tộc.
Thời Kinh Dương Vương.
Năm 2879 TCN, Kinh Dương Vương lên ngôi vua, đặt tên nước là Xích Quỷ, Dương Lạc tướng (Lạc tướng Họ Dương) phù Vua Thủy Tổ dựng nước sơ khai, Kinh đô đóng tại Luy Lâu (Thuận Thành - Bắc Ninh).
Thời Hùng Vương thứ Nhất
Lạc Long Quân kế nghiệp, sinh Hùng Vương thứ Nhất, kinh đô về Phong Châu (Phú Thọ). Thái sư Quốc Công Dương Minh Tiết giúp Vua cải tên nước là Văn Lang, lập Hiến pháp nước Văn Lang, chia đất nước thành 15 bộ: Phong Châu (Phú Thọ), Vũ Ninh (Bắc Ninh – Kinh Bắc),... để dễ bề cai quản.
Thời Hùng Vương thứ Sáu
Vua Hùng cử Lạc tướng Dương Minh Thắng về đất Vũ Ninh dẹp giặc Ân; giặc tan, Vua lệnh ở lại Vũ Ninh, chuyển con cháu về định cư, lập tân ấp, củng cố lực lượng, canh chừng giặc giã, bảo vệ đất nước.
Cụ tổ Dương Minh Thắng là hậu duệ lâu đời của cụ Thượng Tổ Dương Minh Tiết, sinh quán ở Bạch Hạc – Phong Châu – Phú Thọ, làm quan Lạc tướng Vua Hùng Vương thứ Sáu.
Cụ về Vũ Ninh định cư, định canh, lập tân ấp Long Vỹ (làng Long Vỹ), xây dựng gia đình; qua nhiều đời kế tiếp thành vùng đông đúc người Họ Dương cư trú, đời đời phồn thịnh. Nay vùng đất ấy là Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Người đông lên, chia nhau đi các ngả khai phá, định cư thành nhiều vùng cư trú của người Họ Dương. Vì thế, Vũ Ninh (Băc Ninh) được coi là đất phát tích của người Họ Dương.
Lưu truyền đến ngày nay rằng: Người Họ Dương Việt Nam, dù ở góc biển chân trời nào cũng đều chung thủy tổ là cụ Dương Minh Tiết.
Thời nghìn năm Bắc thuộc
Nước Nam ta ba lần chịu sự đô hộ của phương Bắc (Bắc thuộc), cộng tới 1083 năm (207 TCN – 938), từ triều Tây Hán đến triều Hậu Tấn.
Người Họ Dương cùng trăm họ luôn sục sôi căm thù, quyết tâm đánh giặc giành quyền độc lập tự chủ cho Dân tộc.
Mở đầu là cha con Lạc tướng Dương Thái Bình – Dương Thi Sách hồi đầu Công Nguyên, chuẩn bị lực lượng đánh nhà Đông Hán. Nhưng Thi Sách bị giặc giết sớm!. Việc chưa thành. Trưng Trắc - vợ Thi Sách dấy binh khởi nghĩa (năm 40 – 43), quyết tâm đánh giặc đền nợ nước, trả thù nhà. Bà là một nàng dâu Họ Dương thật trí – dũng song toàn!
Trong thời kỳ Bắc thuộc, ở nước ta diễn ra 10 cuộc khởi nghĩa, thì riêng người Họ Dương đảm đương 4 cuộc. Sau cuộc khởi nghĩa Thi Sách – Trưng Trắc, phải kể đến cuộc khởi nghĩa của Dương Thanh.
Dưới thời thuộc Đường, Dương Thanh - một thủ lĩnh người Việt, thứ sử Châu Hoan (Nghệ Tĩnh ngày nay) nổi dậy khởi nghĩa (879 – 820) giết Lý Tượng Cổ, tôn thất nhà Đường nổi tiếng hung tàn và hơn nghìn bộ hạ của hắn sang xâm lược nước ta. Ông cùng con trai Dương Chí Liệt và một người thân tín là Đỗ Sĩ Giao kêu gọi nghĩa quân tập kích thành Tống Bình giành quyền tự chủ, giải thoát ách thống khổ cho nhân dân ta, mở đầu trang sử vẻ vang của Dòng tộc Họ Dương từ đầu thế kỷ thứ 9.
Đầu thế kỷ thứ 10, nhà Đường suy yếu, Khúc Thừa Dụ người Việt chiếm giữ Giao Châu, tự xưng Tiết Độ Sứ. Khi họ Khúc bị quân Nam Hán đánh bại, Dương Đình Nghệ vốn là tướng tài của họ Khúc không khuất phục, đã nhận 3000 con nuôi đều mang họ Dương, lấy làng Giàng (Châu Ái – Thanh Hóa) làm trung tâm kháng chiến, tập hợp anh tài cả nước, dấy binh đánh đuổi quân Nam Hán.
Năm 931, Dương Đình Nghệ tiến đánh thành Tống Bình, đuổi Lý Khắc Chính, Lý Tiến, giết Trần Bảo, chiếm lại Giao Châu, khôi phục nền tự chủ nước nhà, tự xưng là Tiết Độ Sứ - làm Vua cai quản đất nước 6 năm (931 – 937). Ông là người khởi đầu cơ nghiệp lớn của Họ Dương.
Năm 937, Dương Đình Nghệ bị một nha tướng của mình là Kiều Công Tiễn giết hại, mưu cướp ngôi Tiết Độ Sứ. Con trai Dương Đình Nghệ là Dương Tam Kha, cùng con rể của ông là Ngô Quyền nhanh chóng diệt trừ Công Tiễn, chém chết Hoằng Thao cầm đầu viện binh nhà Hán trên sông Bạch Đằng (năm 938), kết thúc hơn ngàn năm nước ta bị thống trị của phương Bắc. Ngô Quyền tự xưng Vương, lập Dương Thị Như Ngọc, ái nữ của Dương Đình Nghệ làm Hoàng Hậu. Một thời kỳ độc lập lâu dài của đất nước bắt đầu. Dương Tam Kha hết lòng phụ giúp Ngô Vương. Còn Như Ngọc, vợ Ngô Quyền cũng là người có công lớn, đứng ra lập đội nữ nương tử quân, động viên lực lượng phụ nữ dốc tâm tham gia cứu nước.
Năm 944, Ngô Quyền mất, ở ngôi được 6 năm.
Gánh nặng đè lên vai Dương Tam Kha, một người từng là bộ tướng của cha, cùng Ngô Quyền, rồi là tướng của Ngô Quyền anh rể. Đất nước vẫn trong vong tao loạn, các con của Ngô Quyền chưa đủ quyền uy cai trị đất nước. Trước tình hình đó, Dương Tam Kha tự xưng là Bình Vương, tự nguyện gánh vác việc non sông đất nước.
Năm Tân Hợi (951), Dương Tam Kha bị cháu là Ngô Xương Văn lật đổ, ông ung dung trở về Chương Dương, rồi Cổ Lễ khai khẩn đất hoang, quai đê lấn biển, giúp dân làm ăn, sinh cơ lập nghiệp thành 2 miền quê rộng lớn, thanh bình và trù phú. Hiện nay ở Chương Dương (Thường Tín – Hà Nội) và Cổ Lễ (Trực Ninh – Nam Định) có Đền thờ Ông; nhiều làng thờ Ông làm Phúc Thần.
Thời Đinh (968 – 980) và Tiền Lê (980 – 1009)
Vào thời Hậu Ngô Vương (951 – 965), Ngô Xương Văn, Ngô Xương Ngập làm vua, đất đước rối ren, 12 xứ quân nổi loạn.
Năm 967, Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên loạn 12 xứ quân, lên ngôi Hoàng Đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, lập Dương Vân Nga – con gái Dương Tam Kha làm Hoàng Hậu.
Năm Kỷ Mão (979), Vua Đinh bị Đỗ Thích giết hại. Con là Đinh Toàn, 6 tuổi nối ngôi vua. Bà Dương Vân Nga là Hoàng Thái Hậu, giúp con nhiếp chính, đối nội, đối ngoại sắc xảo, có nhiều công với nước.
Thời Bà, giặc Tống lăm le ở phía Bắc, quân Chiêm nhòm ngó ở đằng Nam. Trước mối đe dọa giặc ngoại xâm, vận mệnh đất nước “ngàn năm treo sợi tóc”, Thái Hậu Dương Vân Nga trao áo Hoàng Bào cho Thập đạo tướng quân Lê Hoàn, tôn ông làm Vua lãnh đạo toàn dân kháng chiến thắng lợi, đánh Tống bình Chiêm. Hành động vì nước vì dân của Thái Hậu là tấm gương liệt nữ soi sáng muôn đời sau. Trước kia, do chưa hiểu ý nghĩa cao cả của sự việc, người ta còn dị nghị về tư cách, đạo đức của Bà. Nhưng càng ngày Bà càng tỏ rõ là bậc “Anh thư nữ kiệt”!
Thời nhà Lý (1010 – 1225)
Chín đời vua Lý trải 215 năm, trong đó có năm đời do người Họ Dương đảm nhiệm, mở đầu là vua Lý Thần Tông - Dương Hoán, đến cuối cùng là Lý Chiêu Hoàng, trị vì tất cả 97 năm.
Sử sách nước ta chỉ rõ: Vua Lý Nhân Tông (1072 – 1128) không có con trai, nuôi cháu là Dương Hoán con Sùng Hiền Hầu Dương Công Khanh từ nhỏ làm con nuôi, lập Thái tử, truyền ngôi làm vua Lý Thần Tông Dương Hoán, ở ngôi 11 năm (1128 – 1138). Vua coi trọng việc khoan thư sức dân, đưa ra chính sách “Ngụ binh ư nông”, cho quân lính thay nhau về làm ruộng, lo cho “thực túc binh cường”. Con là Thiên Tộ lên ngôi làm vua Lý Anh Tông, là người lập bản đồ đầu tiên cho nước Nam ta...
Vào cuối triều nhà Lý, đầu triều nhà Trần, họ Lý và họ Dương lâm vào họa “tru di” ; táo tác chạy loạn, mai danh ẩn tích, đi các vùng khác hay đi cả nước ngoài, như cha con Lý Long Sưởng – Lý Long Tường,... vượt biên sang xứ Cao Ly (Hàn Quốc).
Cuối nhà Trần, đầu nhà Hồ (đầu thế kỷ 15), người Họ Dương lại một lần nữa gặp họa “tru di” do Hồ Qúy Ly âm mưu gây ra. Một họ Đào gốc Dương ở Cổ Lễ (Nam Định) phải đổi sang nhiều họ: Phạm, Nguyễn, v.v. Tình trạng thay tên đổi họ đã khiến cho anh em, con cháu người Họ Dương ly tán nhau, lạc mất cội nguồn, khó bề nối lại vì qua nhiều đời mất liên lạc, gia phả, tộc phả không còn. Đây là một nguyên nhân khiến cho dân số Họ Dương thấp, tuy rằng Họ Dương có từ thời Hùng Vương.
Khoa bảng Họ Dương
Đến các triều đại về sau, với bản chất yêu nước, hiếu học, nhân từ - đạo đức, vẫn xuất hiện nhiều danh thần, võ tướng có tri thức cao, giúp ích cho việc trung hưng các triều đại. Đó là truyền thống Khoa bảng của Họ Dương, với 50 tiến sĩ Văn, 7 tiến sĩ Võ thời phong kiến, được ghi danh trên các Bia Văn Miếu Hà Nội, Bắc Ninh, v.v. Tiêu biểu là Lưỡng quốc Trạng nguyên Đào Sư Tích gốc Dương (1374), quê Song Khê – Yên Dũng - Bắc Giang; Trạng nguyên Dương Phúc Tư (1547), quê Thuận An – Kinh Bắc, nay là Lạc Đạo – Văn Lâm – Hưng Yên.
Một số chi họ có truyền thống học tập đỗ đạt cao như chi Họ Dương Lạc Đạo – Hưng Yên; Lạc Thổ - Thuận Thành – Bắc Ninh; Cổ Lễ - Nam Định; Vân Đình – Hà Nội; Yên Lộc – Can Lộc – Hà Tĩnh; Quỳnh Đôi - Quỳnh Lưu - Nghệ An; Vĩnh Mỗ - Yên Lạc – Vĩnh Phúc, v.v.
Nhiều Tiến sĩ Họ Dương có tài, đi sứ hay làm quan đến chức Thượng Thư (Bộ Trưởng) như Dương Duy Nhất, khoa Mậu Tuất (1538), trú quán Dị Sử - Lương Tài - Bắc Ninh; Dương Trí Dũng, khoa Ất Sửu (1565), người Bát Trạc – Can Lộc – Hà Tĩnh; Dương Thuần, khoa Mậu Thìn (1628), quê Lạc Đạo – Văn Lâm – Hưng Yên; Dương Văn An, khoa Đinh Mùi (1547), xã Phúc Tuy - Lệ Thủy - Quảng Bình; Dương Khuê, khoa Mậu Thìn (1868), thời Tự Đức – 21, người Vân Đình – Hà Đông, v.v.
Thời cận đại và hiện đại, nhiều trí thức tiêu biểu Họ Dương còn lưu danh như: Dương Lâm, Dương Duy Thanh, Dương Quảng Hàm, Dương Tử Quán,...
Những năm đầu thế kỷ 20, nhiều người Họ Dương nhiệt tình yêu nước như Dương Công San, Dương Đình Thạc, Dương Văn Quynh xuất dương sang Vân Nam (Trung Quốc) ra nhập Việt Nam Quang Phục Hội. Tiếp đó, cha con Dương Trọng Phổ - Dương Bá Trạc hoạt động phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục,...
Tại Nam Kỳ có Dương Tấn Tài, Dương Quang Đông, Dương Khuy; tại Nghệ An có anh em chú cháu Dương Văn Lan, Dương Vụ Bản, Dương Đình Thúy và Dương Ngọc Liễn; tại Bắc Ninh có Dương Văn Diên, Dương Hạc Đính,...
Cho đến khi thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dương (tháng 2 – 1930), theo thống kê bước đầu ở các tỉnh: Bến Tre, Sóc Trăng, Trà Vinh, Cao Bằng, Hà Nam, Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình, có trên 20 người Họ Dương đã gia nhập Đảng. Tiêu biểu có ông Dương Quang Đông làm Bí thư đầu tiên tỉnh Trà Vinh (1930), ông Dương Vụ Bản làm Bí thư huyện ủy Quỳnh Lưu – Nghệ An (tháng 3 – 1931),...
Trong hai cuộc kháng chiến (1945 – 1975), người Họ Dương luôn kề vai sát cánh cùng dân tộc, số lượng không sao thống kê hết được. Có thể kế một vài trường hợp: Dương Đại Long, Dương Mạc Thạch tham gia đội tuyên truyền Giải Phóng Quân Việt Nam (1944); Dương Đức Hiền (Hà Nội); Dương Linh, Dương Tự Cơ (Hưng Yên); Dương Văn Phát (Hà Nam); Dương Minh Đức, Dương Quang Gián (Bắc Ninh);...
Ở miền Nam: Dương Bạch Mai, Dương Quang Đông trực tiếp lãnh đạo cướp chính quyền ở Sài Gòn; Dương Minh Châu (Tây Ninh); Dương Khuy (Mỹ Tho); Dương Văn Dương (Bến Tre);...
Ngày nay, nhiều người Họ Dương là các nghệ sỹ có tiếng: Dương Cẩm Chương, Dương Bích Liên, Dương Thụ, Dương Thiệu Tước,...; các nhà khoa học tài năng: Dương Đức Tiến, Dương Xuân Đạm, Dương Trọng Hiếu,... và nhiều doanh nhân thành đạt.
Về nơi cư trú của người Họ Dương
Người Họ Dương có mặt ở khắp 63 tỉnh thành của Việt Nam. Vùng Kinh Bắc xưa nay, nay là hai tỉnh Bắc Ninh - Bắc Giang, là nơi phát tích Họ Dương, nên người Họ Dương rất đông đúc, có những làng xã chỉ toàn người Họ Dương, như ở Tân Yên, Yên Dũng (Bắc Giang); Châu Cổ Pháp (nay là 2 huyện Từ Sơn và Tiên Du thuộc Bắc Ninh),...
Theo thời gian, người ta di cư đi nơi khác, do kiếm kế sinh nhai hay lý do thời thế, sinh ra thêm những vùng quê mới của người Họ Dương.
Hiện tượng như thế thời nào cũng có.
Ví dụ như: Đầu thế kỷ thứ 9, Dương Thanh từ Long Vỹ - Cổ Pháp vào làm Thứ sử Châu Hoan. Năm 894, Dương Đình Nghệ chuyển cả gia đình, cùng 3000 con nuôi Họ Dương vào Chấu Ái lập làng Giàng – Dương Xá (nay là làng Giàng - Thiệu Hóa – Thanh Hóa),...
Vào thế kỷ 12, Dương Tự Minh vâng mệnh vua Lý Anh Tông đi trấn giữ vùng biên ải phía Bắc. Nay đông đúc người Họ Dương ở các tỉnh miền núi phía Bắc coi Ông là Khởi Tổ; có hàng trăm đền miếu thờ Ông như ở Phú Bình (Thái Nguyên), Bắc Sơn (Lạng Sơn), Cao Bằng, Bắc Cạn,...
Đầu thế kỷ 14, Tiến sĩ Đào Toàn Bân, cha đẻ Lưỡng quốc Trạng nguyên Đào Sư Tích, từ Song Khê - Bắc Giang di cư về Trực Ninh – Nam Định. Đến đầu thế kỷ 15, đề phòng họa “tru di” do Hồ Qúy Ly mưu tính, trước khi đi sứ Nhà Minh, Đào Sư Tích cho con cháu thay tên, đổi sang nhiều họ khác: Phạm, Nguyễn,... Sau này, có chi trở về Họ Dương, Họ Đào; có chi vẫn mang họ Phạm, Nguyễn,... Đến nay, việc tìm hiểu cội nguồn họ mạc của họ này còn nhiều khó khăn.
Cuối thế kỷ 14, cụ Dương Công Đình từ Cổ Pháp về định cư ở vùng cửa biển Đại An – Nam Định, trở thành khởi tổ của nhiều chi họ Dương ở Ý Yên – Nam Định. Nhà thờ Họ Dương nay ở làng Dương Phạm – Ý Yên – Nam Định,...
Sự xuất hiện người Họ Dương ở các tỉnh miền Trung và miền Nam diễn ra muộn hơn. Để tìm hiểu việc này cần phải dựa vào các cuộc di dân lớn từ ngoài vào.
Sự kiện đáng chú ý đầu tiên là năm 1307, khi vua Trần Anh Tông tiếp thu hai châu Ô và Lý từ Vua nước Chiêm Thành, thì từ Châu Hoan (Nghệ Tĩnh), Châu Ái (Thanh Hóa) người ta rầm rộ đổ vào đất mới, sinh cơ lập nghiệp. Châu Ô, Châu Lý sau đổi thành Phủ Thuận Hóa, nay là các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế.
Sự kiện tiếp theo là chúa Nguyễn Hoàng (1525 – 1613) tiên phong mở cõi xuống phía Nam, mở đầu việc hùng cứ phương Nam của 9 chúa Nguyễn. Cuộc di dân từ Bắc vào Nam kéo dài hơn 200 năm. Theo dòng người đông đảo ấy, trong đó có nhiều người Họ Dương.
Khi Pháp xâm lược nước ta, chúng tuyển phu phen tạp dịch từ miền Bắc, miền Trung vào phục vụ khai thác thuộc địa, đó là lớp lớp phu đồn điền cao su, lục lộ,... Hơn 100 năm Pháp đô hộ, người từ ngoài vào không phải là ít!
Thời hiện đại, phải tính đến các lần di chuyển người: Đó là cuộc di cư vào Nam năm 1954; đó là việc chi viện của quân dân miền Bắc cho cách mạng miền Nam trong 20 năm (1955 – 1975); khi đất nước thống nhất (30 – 4- 1975), lớp lớp người đủ mọi thành phần từ Bắc vào Nam tham gia khôi phục và xây dựng đất nước, rồi định cư, kéo theo nhiều người Họ Dương đến các thành phố, các vùng kinh tế mới ở các miền quê." ( http://hoduongvietnam.com.vn/ ).