Ảnh vợ chồng Hoàng Trọng Phu tại Lăng ( dienbatn ).
Ban thờ trong lăng Hoàng Trọng Phu ( Ảnh dienbatn).
Không thể có được một bức hình toàn cảnh lăng vì mọi hướng đều bị che khuất bởi những ngôi nhà chen chúc nhau trên con đường ngoắt nghéo đầy hàng quán. Với những vòm cửa bị bịt, lăng đã biến thành "tư dinh" của một hộ gia đình ba thế hệ .
Mọi sinh hoạt hàng ngày từ ăn ngủ, yêu đương, sinh con đẻ cái đều diễn ra bên cái quan tài đá từng bị bọn đạo trích cậy phá tìm của. Người sống và người chết chung nhau nơi cư ngụ. Bà chủ hộ từng kể với báo chí dạo đầu thấy ngài về, đi đi lại lại khắp nhà, con dâu cả của bà sợ hãi phải bỏ về quê. Rùng mình!
Mộ của Hoàng Trọng Phu trong lăng ( Ảnh dienbatn ).
Hoàng Cao Khải chỉ tạc hai bờ mây cách điệu hình rồng (Vân hoá rồng) cho lăng mộ của mình, nhưng con trai ông tạc cho mình hẳn một đôi rồng. Đâu mất một con?
HƯỚNG MỘ : 87 độ 5 - thuộc cung Chấn - Tọa Dậu - Hướng Mão - Phân kim : Kỷ Dậu - Quý mão là huyệt khí Bảo châu. ( HƯỚNG LĂN MỘ CỦA HOÀNG CAO KHẢI VÀ HOÀNG TRỌNG PHU GIỐNG NHAU )
Khu đền thờ Hoàng Cao Khải
Cách khu lăng không xa là khu đình thờ của họ Hoàng 7 gian, lớn hơn tất cả những ngôi đình trên địa bàn Hà Nội. Trước cửa đình là một hồ vuông diện tích vài trăm mét vuông, bờ bó bằng đá xanh, quy mô lớn hơn hồ vuông ở Văn Miếu. Vào dịp sinh nhật mình hoặc khi có việc vui, các dịp khánh tiết, chủ thái ấp thường tổ chức các chầu hát, quan lại các tỉnh về dự khá đông, có cả bơi thuyền tại hồ vuông.
Một dãy nhà cao tầng bám theo mặt phố Đặng Tiến Đông ngăn cách Hồ Vuông với gò Đống Đa .
Thể hiện tính khí chủ nhân, đôi rồng trên mặt hồ trông rất hung dữ .
Khu đình thờ dòng họ Hoàng giờ là phân viện Nguyễn Ái Quốc .
Những tấm biển: Phòng đọc, nhà A, Nhà B cho thấy công năng sử dụng công trình này đã thay đổ. Biết đâu đó lại là điều may mắn giúp công trình này tránh được sự tàn phá thê thảm của người dân nơi đây.
Hành lang khu điện. Một cảm giác ghê sợ khi nhìn những hình rồng nhe răng há miệng đỏ lòm. Những hình trang trí trên gạch lát có nói lên điều gì về chủ nhân khu thái ấp?
Photo by ttnhan
Location: Thai Ha Hamlet - Tây Sơn street.
" Trước cửa đình là một hồ vuông diện tích vài trăm mét vuông, bờ bó bằng đá xanh, có tầng hoa sen vây quanh, quy mô lớn hơn hồ Thiền Quang và Văn Miếu. Khu nhà ở của ấp Thái Hà cũng có những nét đặc sắc riêng khác hẳn xóm làng Việt Nam cổ truyền. Theo sử liệu, các dinh cơ trong ấp Thái Hà được căng dây kẻ thẳng với hệ thống mương thoát nước, khác hẳn với hình dáng khúc khuỷu của làng xóm xung quanh. Các con đường đi vào theo lối hà kiều (cầu trên sông), là những cây cầu gạch bắc qua các con mương bao quanh khu nhà ở để đánh dấu ranh giới. Nếu như ở mô hình làng Việt cổ có luỹ tre ngăn cách xóm làng với bên ngoài thì ở đây lại tạo nên một tầm mở rộng. "(dl.ueb.edu.vn)
Hồ Tẩm Nguyệt .
Đối diện với lăng Hoàng Cao Khải là hồ Tẩm Nguyệt(Dầm Trăng) và những dòng mương uốn lượn. Hồ có hình bán nguyệt rộng vài trăm m2 nên người dân cũng quen gọi là hồ Bán Nguyệt.
Hiện nay, nước hồ đang bị ô nhiễm nghiêm trọng và khu vực xung quanh hồ đã trở thành nơi họp chợ của người dân.
Quyết định xếp hạng di tích ngày 28/4/1962 của Bộ VH-TT đã đánh giá:
"Đây là chứng tích duy nhất của nước ta về một quần thể các công trình lăng tẩm, dinh thự của một phó vương"
Tuy là một di tích có tính đặc thù cao về kiến trúc và được xếp hạng quốc gia từ rất sớm, nhưng hiện nay quần thể di tích này nhận được rất ít sự quan tâm của các cơ quan văn hóa và người dân khu lăng nên đã gần như trở thành một phế tích.
"Từ đầu thập kỷ 10 của thế kỷ XX trở đi, nhiều cơ quan thuê nhà trong ấp Thái Hà để đặt trụ sở, như Viện Đại lý Pháp, Sở Đại chính Bắc Kỳ, Phòng Thí nghiệm vi trùng học…Năm 1927, thực dân Pháp cho lập một trại thu nhận trẻ lang thang tại đây.
Sau Cách mạng Tháng Tám, ấp Thái Hà về tay chính quyền nhân dân, tiếc rằng, việc bảo quản không tốt, nên nhiều công trình có giá trị kiến trúc nghệ thuật trong ấp Thái Hà đã bị phá. Hiện chỉ vài công trình đơn lẻ. Khu vực ấp đã trở thành khu dân cư và một bộ phận của Học viện Nguyễn Ái Quốc. (Ôi chaO) Sự tàn phá Theo tài liệu của nhà nghiên cứu người Pháp Phillippe Papin, phía trước lăng mộ Hoàng Cao Khải hồi đầu thế kỷ XX có hai dãy tượng gồm 8 chiến binh cao 1,3m cầm gươm đứng gác. Thế nhưng hiện nay số tượng này chỉ còn lại 3 vị và cả 3 đều
mất... phần chân do người dân đã tôn nền xi măng trùm lên cả chân tượng!
Khu lăng mộ Hoàng Cao Khải cũng đã bị biến thành trụ sở tuần tra cụm dân cư số 9 UBND phường Trung Liệt. Có thời điểm chiếc quan tài bằng đá với hoa văn tinh xảo còn bị một ông phó mộc dùng làm... bàn mộc. Người dân quanh khu di tích đã tận dụng tối đa diện tích bằng cách cho xây tường bao quanh. Tại khu lăng mộ Hoàng Trọng Phu có ba hộ gia đình đã “nhảy dù” vào sinh sống từ năm 1972 đến nay. Khu học đường, từ đường, đình tế cũng bị nhiều hộ dân chiếm cứ.
Một điểm thú vị là tại ấp Thái Hà, Hoàng Cao Khải, đã cho xây miếu Trung Liệt để tưởng niệm bốn vị quan yêu nước thế kỷ XIX là tổng đốc Trương Quốc Dụng hy sinh khi chỉ huy công cuộc bình định năm 1864, Nguyễn Tri Phương tự vẫn khi thành Hà Nội thất thủ, Đoàn Thọ chết trong một cuộc khởi nghĩa chống Pháp tại Lạng Sơn năm 1890, Hoàng Diệu, tổng đốc thành Hà Nội, tự vẫn khi quân Pháp chiếm thành lần thứ hai (1882). Song hiện nay khu miếu Trung Liệt đã hoàn toàn bị xóa sổ!
Điều đáng nói là khu di tích này chỉ cách trụ sở UBND phường vài trăm mét và cách phòng văn hóa quận chừng một cây số. Anh Nguyễn Văn Kiểm, cán bộ đóng tại trụ sở cho biết anh không hề hay biết khu di tích này đã được xếp hạng. Anh nói: “Chúng tôi ăn còn chả đủ, lấy đâu ra tiền mà tu sửa, chỉ quét vôi được đã là giỏi lắm rồi! Những năm trước bọn nghiện ngập chích choác còn vứt ống tiêm, rác rưởi ngập ngụa khắp khu mộ đá. Như vậy, chỉ riêng việc chúng tôi ở đây và không làm gì cả cũng là góp phần gìn giữ di tích đấy chứ!”.
Ngày 25/11/1945, trong Sắc lệnh bảo vệ di tích cổ vật (gồm cả lăng miếu), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương giữ nguyên hiện trạng khu ấp Hoàng Cao Khải. Sau ngày giải phóng thủ đô (10/10/1954), di tích này vẫn được duy trì. Thế nhưng do chiến tranh leo thang phá hoại miền Bắc của Mỹ (1972) rồi những khó khăn gay gắt về nhà ở đã dẫn tới việc dân tứ chiếng đổ bộ vào khu di tích này. Hiện, trên địa bàn Hà Nội có 1915 di tích, trong đó có 600 di tích được xếp hạng trong đó quần thể lăng mộ Hoàng Cao Khải (1845 - 1933) là di tích kiến trúc bằng đá duy nhất.
Quyết định xếp hạng di tích ngày 28/4/1962 của Bộ VH-TT đã đánh giá: “Đây là chứng tích duy nhất của nước ta về một quần thể các công trình lăng tẩm, dinh thự của một phó vương”... (dl.ueb.edu.vn).
" Con cháu ông Hoàng Cao Khải và Hoàng Trọng Phu, sống ở Pháp, đã về Việt Nam hỗ trợ 2 tỷ đồng, để các gia đình chuyển khỏi lăng mộ, để họ tu bổ, quản lý, trông nom lăng mộ của cha ông. Số tiền ấy với những Việt kiều Pháp giàu có thì không đáng gì cả, nhưng với các hộ gia đình ở đây thì quá lớn, nên họ đồng ý chuyển đi một cách vui vẻ."
ĐỌC THÊM :
Nhắc đến Hoàng Cao Khải không thể không nói tới Phan Đình Phùng và ngược lại - hai con người cùng thời đại, cùng quê, có quan hệ họ hàng, nhưng đối lập nhau về lí tưởng. Một người vương giả hiển vinh, một người vì lí tưởng mà mồ mả tổ tiên bị quật lên, rồi sau này chính thân xác chính mình cũng bị thiêu thành tro, trộn với thuốc súng bắn xuống dòng sông La
(Trích từ Việt Nam Thư Quán....)
Người hạ bút viết bức thư khuyên nhủ Phan ra hàng, chính là người đồng hương, đồng thời với cụ, lại có tình thông gia với nhau nữa: ông Hoàng Cao Khải.
Lúc này họ Hoàng đang làm Bắc kỳ Kinh lược sứ tôn nghiêm hiển hách; người Pháp gọi là "phó vương" (vice roi). Thiếu gì người làng Đông Thái muốn tránh hoạ phải chạy ra Bắc, núp dưới bóng che chở và đầu thân làm môn hạ của họ Hoàng, ngay đến người trong thân tộc cụ Phan cũng có.
Xuất thân chỉ là một thầy cử nhân đậu trẻ, rồi ở nhà nhàn cư vô sự, cờ bạc chơi bời, đến đỗi bán hết gia viên điền sản, chỉ còn một nước tự tử đến nơi, họ Hoàng bỏ nhà đi ra Bắc hà, gặp được người tri kỷ, rồi cỡi voi đánh giặc, tuỳ thế lập công danh, thấm thoát không mấy năm mà làm tới kinh lược, phong tới Quận công, ai cũng phải chịu là người có tài lớn.
Nếu cụ Phan là anh hùng muốn tạo lại thời thế mà tạo không được, thì họ Hoàng chính là anh hùng bởi thời thế tạo ra.
Cùng thời, cùng làng, hai người đi khác hẳn con đường chí hướng, mà cùng đến chỗ cực đoan, cùng có tên tuổi lớn trong lịch sử. Đối với thời thế, mỗi ông là một đại biểu cho một trào lưu tư tưởng hành vi của Việt Nam: có họ Hoàng nên khí tiết họ Phan càng rõ rệt, có họ Phan nên sự nghiệp họ Hoàng càng vẻ vang, ấy là một chỗ sắp đặt của lịch sử éo le khôn khéo lắm vậy.
Cuối tháng 10 năm Giáp Ngọ, Hoàng Cao Khải viết thư rồi sai chính người nội đệ (em vợ) mình vừa là ông anh con nhà bác của cụ Phan là Phan Văn Mân đêm lên núi Vụ Quang. Không ai khác hơn ông này mà dám lĩnh mệnh đi sứ, nhất là đi sứ chiêu hàng, vì nếu người khác chắc là nghĩa binh làm thịt.
Mặc lòng là bà con thân quyến, Phan Văn Mân phải trải nhiều lớn gian nan nguy hiểm mới vô đến đại doanh. Mới thấy ông đường huynh thò mặt vô, cụ Phan cả cười và nói:
- Anh đi làm thuyết khách cho Hoàng Cao Khải khó nhọc lắm hè!
Vì cụ đã được tin báo trước cho biết.
Cụ xem thư rồi thở dài:
- Không dè người khuyên nhủ tôi ra hàng là cố nhân Hoàng Cao. Tôi thề quyết làm việc tôi làm đây tới cùng, dầu sấm sét búa rìu cũng không làm sao cho tôi thay lòng đổi chí được, anh về nói giùm cho Hoàng Cao biết như thế. Nếu tôi không làm xong được công việc vua uỷ thác, dân trông mong và không rửa hận cho khô cốt của tổ tiên ở dưới đất, thì chỉ có một cách là chết theo hoài bão tâm chí mình mà thôi.
Rồi tức thời, cụ cầm bút viết thư trả lời, trao cho ông Phan Văn Mân đem về. Lúc anh em từ biệt, cụ ân cần dặn với:
- Cũng may phước cho người đem thư chiêu hàng chính là anh, nếu là ai khác thì bộ hạ của tôi chắc làm tương mắm để gửi biếu Hoàng Cao nếm thử. Lần sau y có sai đi, anh đừng lãnh mệnh nữa nghe!
Ta đọc cả hai bức thư dịch ra dưới đây, tức như hai bức tranh phóng đại tâm tích chí khí của hai ông cùng một làng với nhau, mà hai đàng xa cách nhau tuyệt mù không thế nào gặp nhau được là phải.
Bức thư của Hoàng Cao Khải
"Đồng ấp Phan Đình Nguyên đại nhân túc hạ.
Tôi với ngài xa cách nhau, xuân thu đắp đổi trải đã mười bảy năm nay rồi. Dâu bể cuộc đời, bắc nam đường bụi, tuy là mỗi người đi một ngả khác nhau, nhưng mà trong giấc mộng hồn vẫn thường thấy nhau không phải xa xôi gì. Ngồi nghĩ lại ngày trước chúng ta còn ở chốn quê hương giao du với nhau, cái tình ấy đằm thắm biết là dường nào?
Từ lúc ngài khởi nghĩa đến giờ, nghĩa khí trung can, đều rõ rệt ở tai mắt người ta. Tôi thường nghe các quý quan (là các quan Pháp) nói chuyện đến ngài, ông nào cũng phải thở than khen ngợi và tỏ ý kính trọng ngài lắm. Xem như thế thì tấm lòng huyết khí tôn nhân, tuy là người khác nước cũng chung một tâm tình ấy thôi, không phải là người cùng thanh khí với nhau mới có vậy.
Ngày kinh thành thất thủ, xe giá nhà vua bôn ba, mà ngài mạnh mẽ đứng ra ông nghĩa, kể sự thế lúc bấy giờ, ngài làm vậy là phải lắm, không ai không nói như thế. Song le, sự thế gần đây đã xoay đổi ra thế nào, thử hỏi việc đời có thể làm được nữa không, dầu kẻ ít học thức, kém trí khôn, cũng đều trả lời không được. Huống chi như ngài lại là bậc người tuấn kiệt, chẳng lẽ không nghĩ tới đó hay sao? Tôi trộm xét chủ ý của ngài, chắc cũng cho rằng: ta cứ làm theo việc phải ta biết, cứ đem hết tài năng ta có, một việc nên làm mà làm là ở nơi người, còn nên được hay không nên là ở nơi trời, ta chỉ biết đem thân này hứa cho nước, đến chết mới thôi. Bởi thế, cho nên ngài cứ việc làm tới cùng, không ai có thể làm biến đổi cái chí ấy đi được.
Có điều tôi thấy tình trạng ở quê hương chúng ta gần đây, lấy làm đau lòng hết sức. Nhân đó, tôi thường muốn đem ý kiến hẹp hòi, để ngỏ cùng lượng cao minh soi xét; nhưng mấy lần mở giấy ra rồi, mài mực xong rồi, đã toan đặt bút xuống viết rồi lại gác bút thở dài, không sao viết được. Vì sao? Vì tôi liệu biết can tràng của ngài cứng như sắt đá, không thể lấy lời nói mà chuyển động nổi. Đã vậy, lại còn khác tình, khác cảnh, xa mặt xa lòng, vậy thì lời nói của tôi, chắc gì thấu tới được nơi ngài; mà dầu cho có thấu tới nơi ngài chăng nữa, đã chắc gì lọt vào tai ngày chịu nghe giùm cho, chẳng qua chỉ để cho cố nhân cười mình là thằng ngu thì có.
Nay nhân quan Toàn quyền trở lại, đem việc ở tỉnh ta bàn bạc với tôi, có khuyên tôi sai người đến ngỏ ý cùng ngài biết rằng: ngài là bậc người hiểu biết nghĩa lớn, dầu không bận lòng tưởng nghĩ gì đến thân mình, nhà mình đi nữa, thì cũng nên tưởng nghĩ cứu vớt lấy dân ở trong một địa phương mới phải. Lời nói đó, quan Toàn quyền không nói với ai, mà nói với tôi, là vì cho rằng: tôi với ngài có cái tình xóm làng cố cựu với nhau, chắc hẳn tôi nói ngài nghe được, vậy có lẽ nào tôi làm thinh không nói?
Ngay thử nghĩ xem: quan Toàn quyền là người khác nước, muôn dặm tới đây, mà còn có lòng băn khoăn lo nghĩ tới dân mình như vậy thay, huống chi chúng ta sinh đẻ lớn khôn ở đất này, là đất của cha mẹ tôn tộc ở đó, có là đâu mình làm lơ đành đoạn, thì trăm năm về sau, người ta sẽ bảo mình ra làm sao? Ôi! Làm người trên phải có lòng thương yêu dân làm cốt, chưa từng có ai không biết thương dân mà bảo là trung với vua bao giờ. Việc của ngài làm từ bấy lâu nay, bảo rằng trung thì thiệt là trung, song dân ta có tội gì mà vướng phải nông nỗi lầm than thế này, là lỗi tại ai? Nếu bảo là đã vì thiên hạ thì không thiết chi tới nhà nữa cũng phải, nhưng một nhà của mình đã vậy, chứ còn bao nhiêu nhà ở trong một vùng cũng bỏ đi cả, sao cho đang tâm, Tôi nghĩ nếu như ngài cứ không không làm tràn tới mãi, thì e rằng khắp cả sông Lam núi Hồng đều biến thành hồ cá hết thảy, chứ không phải chỉ riêng lo ngại cho cây cỏ một làng Đông Thái chúng ta mà thôi đâu. Đến nỗi để cho quê hương điêu đứng xiêu tàn, tưởng chắc bậc người quân nhân quân tử không lấy gì làm vui mà làm thì phải.
Tôi suy nghĩ đắn đo mãi, vụt lấy làm mừng rỡ mà nói riêng với mình: Được rồi, lời nói đó tôi có thể đem ra nói cho ngài nghe lọt tai, để xin ngài chỉ bảo cho biết như vậy có phải hay không?
Tuy nhiên, sự thế của ngài như cỡi trên lưng cọp đã lỡ rồi, bây giờ muốn bước xuống, nghĩ lại khó khăn biết bao!
Nếu như tôi không có chỗ tự tin chắc chắn nơi mình, thì quyết không khi nào dám mở lời nói liều lĩnh để mang luỵ cho cố nhân về sau. Nhưng may là tôi với quan Toàn quyền, vốn có tình quen biết nhau lâu, lại với quan Khâm sứ ở Kinh, và quan Công sứ Nghệ Tĩnh, cùng tôi quen thân hiệp ý nhau lắm, cho nên trước kia Trần Phiên sứ (tên là Khánh Tiến, làm Tuần phủ, nên gọi là Phiên sứ) Phan Thị Lang, (tên là Huy Nhuận), cũng là chỗ thân trong tỉnh, trong làng hoặc bị tội nặng, hoặc bị xử đày rồi, thế mà tôi bảo toàn cho hai ông ấy đều được yên ổn vô sự. Lại như mới rồi, ông Phan Trọng Mưu ra thú, tôi dẫn đến yết kiến các đại hiến quý quan, thì các ngài cũng tiếp đãi trân trọng như đãi khách quý, và tức thời điện về tỉnh nhà, bắt trả lại mồ mả, và tha cả ba con về, như thế tỏ ra nhà nước Bảo hộ khoan dung biết chừng nào! Cứ xem vậy đủ biết lẽ ấy, lòng ấy, dầu là người nghìn dặm xa nhau, vẫn là giống nhau vậy.
Bây giờ, nếu ngài không cho lời tôi nói là dông dài, thì xin ngài đừng ngần ngại một điều gì khác hết tôi không khi nào dám để cho cố nhân mang tiếng là người bất trí đâu.
Hoàng Cao Khải
đốn thư"
Bức thư cụ Phan trả lời:
"Hoàng quý đài các hạ,
Gần đây, tôi vì việc quân, ở mãi trong chốn rừng rú, lại thêm lúc này tiết trời mùa đông, khí hậu rét quá, nông nỗi thiệt là buồn tênh. Chợt có người báo có thư của cố nhân gửi lại. Nghe tin ấy, không ngờ bao nhiêu nỗi buồn rầu lạnh lẽo, tan đi đâu mất cả. Tiếp thư liền mở ra đọc. Trong thư cố nhân chỉ bảo cho điều hoạ phước, bày tỏ hết chỗ lợi hại, đủ biết tấm lòng của cố nhân, chẳng những muốn mưu sự an toàn cho tôi thôi, chính là muốn mưu sự yên ổn cho toàn hạt ta nữa. Những lời nói gan ruột của cố nhân, tôi đã hiểu hết, cách nhau muôn dặm tuy xa, nhưng chẳng khác gì chúng ta được ngồi cùng nhà nói chuyện với nhau vậy.
Song le tâm sự và cảnh ngộ của tôi có chỗ muôn vàn khó nói hết sức. Xem sự thế thiên hạ như thế kia, mà tài lực tôi như thế này, y như lời cổ nhân đã nói "thân con bọ ngựa là bao mà dám giơ cánh tay lên muốn cản trở cỗ xe" sao nổi không biết; việc tôi làm ngày nay, sánh lại còn quá hơn nữa, chẳng phải như chuyện con bọ ngựa đưa tay ra cản xe mà thôi.
Nhưng tôi ngẫm nghĩ lại, nước mình mấy ngàn năm nay, chỉ lấy văn hiến truyền nối nhau hết đời này qua đời kia, đất nước chẳng rộng, quân lính chẳng mạnh, tiền của chẳng giàu, duy có chỗ ỷ thị dựa nương để dựng nước được, là nhờ có cái gốc vua tôi, cha con theo nghĩa vốn có chỗ đủ cho mình tự có thể trông cậy dựa nương lắm vậy. Đến nay người Pháp với mình, cách xa nhau không biết là mấy muôn dặm, họ vượt bể tới đây, đi tới đâu như là gió lướt tới đó, đến nỗi nhà vua phải chạy, cả nước lao xao, bỗng chốc non sông nước mình biến thành bờ cõi người ta, thế là trọn cả nước nhà, dân nhà, cùng bị đắm chìm hết thảy, có phải là riêng một châu nào hay một nhà ai phải chịu cảnh lầm than mà thôi đâu.
Năm Ất Dậu, xe giá thiên tử ngự đến sơn phòng Hà Tĩnh, giữa lúc đó tôi đang còn tang bà mẹ, chỉ biết đóng cửa cư tang cho trọn đạo, trong lòng há dám mơ tưởng đến sự gì khác hơn. Song, vì mình là con nhà thế thần, cho nên đôi ba lần đức Hoàng thượng giáng chiếu vời ra; không lẽ nào có thể từ chối, thành ra tôi phải gắng gổ đứng ra vâng chiếu, không sao dừng được. Gần đây, Hoàng thượng lại đoái tưởng lựa chọn tôi mà giao phó việc lớn, uỷ thác cho quyền to; Ấy, mệnh vua uỷ thác như thế đó, nếu cố nhân đặt mình vào trong cảnh như tôi, liệu chừng cố nhân có đành chối từ trốn tránh đi được hay không?
Từ lúc tôi khởi nghĩa đến nay, đã trải mười năm trời, những người đem thân theo việc nghĩa, hoặc đã bị trách phạt, hoặc đã bị chém giết, vậy mà lòng người trước sau chẳng hề lấy thế làm chán nản ngã lòng bao giờ; trái lại, họ vẫn ra tài, ra sức giúp đỡ tôi, và lại số người mạnh bạo ra theo tôi càng ngày càng nhiều thêm mãi. Nào có phải người ta lấy điều ta vạ hiểm nguy làm cho sự sung sướng thèm thuồng mà bỏ nhà dấn thân ra theo tôi như vậy đâu. Chỉ vì họ tin cậy lòng tôi, lượng xét chí tôi, cho nên hâm hở vậy đó thôi. Ấy, lòng người như thế đó, nếu như cố nhân đặt mình vào cảnh của tôi liệu chừng cố nhân có nỡ lòng nào bỏ mà đi cho đành hay không?
Thưa cố nhân, chỉ vì nhân tâm đối với tôi như thế, cho nên cảnh nhà tôi đến nỗi hương khói vắng tanh, bà con xiêu dạt, tôi cũng chẳng dám đoái hoài. Nghĩ xem, kẻ thân với mình mà mình còn không đoái hoài, huống chi là kẻ sơ: người gần với mình mà mình còn không bao bọc nổi, huống chi người xa. Vả chăng hạt ta đến đỗi điêu đứng lầm than quá, không phải riêng vì tai hoạ binh đao làm nên nông nổi thế đâu. Phải biết quan Pháp đi tới đâu, có lũ tiểu nhân mình túa ra bày kế lập công, thù vơ oán chạ; những người không có tội gì chúng cũng đâm thọc buộc ràng cho người ta là có tội, rồi thì bữa nay trách thế nọ, ngày mai phạt thế kia; phàm có cách gì đục khoét được của cải của dân, chúng nó cũng dùng tới nơi hết thảy. Bởi đó mà thói hư mối tệ tuôn ra cả trăm cả ngàn, quan Pháp làm sao biết thấu cho cùng những tật khổ của dân trong chốn làng xóm quê mùa, như thế thì bảo dân không phải tan lìa trôi giạt đi sao được?
Cố nhân với tôi, đều là người sinh đẻ tại châu Hoan, mà ở cách xa ngoài muôn ngàn dặm, cố nhân còn có lòng đoái tưởng quê hương thay, huống chi là tôi đây đã từng lấy thân chịu đựng và lấy mắt trông thấy thì sao? Khốn nỗi cảnh ngộ bó buộc, vả lại sức mình chẳng làm được theo lòng mình muốn, thành ra phải đành, chứ không biết làm sao cho được. Cố nhân đã biết đoái hoài thương xót dân này, thì cố nhân nên lấy tâm sự tôi và cảnh ngộ tôi thử đặt mình vào mà suy nghĩ xem, tự nhiên thấy rõ ràng, có cần gì đến tôi phải nói dông dài nữa ư?
Phan Đình Phùng.Phúc thư"
Bức thư cụ Phan trả lời, viết thật nhẹ nhàng mà đau đớn, tử tế mà cương quyết, tỏ ra mình chết thì thôi, không chịu bãi binh quy hàng. Cụ lại khéo đem quân mạng và dân tâm ra làm nòng cốt để hỏi cố nhân họ Hoàng nếu gặp cảnh ngộ ấy thì làm thế nào? Hình như cụ Phan có ý chận đường rào ngõ không để họ Hoàng viết cho mình tới bức thư thứ hai nữa.
Thiệt, lúc ông Phan Văn Mân đem bức thư phúc đáp ra Hà Nội, họ Hoàng xem rồi biến sắc, nếu lúc ấy có bệnh nhức đầu chống mặt gì, tất cũng tiêu tan như hồi Tào Mạnh Đức đọc bài hịch của Trần Lâm vậy.
Họ Hoàng sai dịch bức thư ra chữ Pháp, đưa trình Toàn quyền De Lanessan, luôn với tờ báo cáo của mình, trong đó có câu đại ý: “Bản chức đã lấy hết sự thế lợi hại để tỏ bày khuyên nhủ Phan Đình Phùng ra hàng, nhưng y vẫn tỏ ý hôn mê bất ngội (mê mẩn tối tăm không tỉnh), giờ xin Chính phủ Bảo hộ vì dân mà dùng binh lực tiễu trừ cho hết văn thân loạn phỉ...”
Ấy là lẽ cố nhiên. Đào mả không núng; khuyên hàng không nghe; văn chương không cảm; thôi thì chỉ còn võ lực. Giờ, quan văn trở vô buồng để cho tướng võ lại ra sân khấu.
THÔNG TIN THÊM.
Hoàng Cao Khải (chữ Hán: 黃高啟; 1850–1933), là nhà văn, nhà sử học và là đại thần thân Pháp dưới triều vua Thành Thái trong lịch sử Việt Nam.
Nguyên danh của ông là Hoàng Văn Khải, tự Đông Minh, hiệu Thái Xuyên, quê ở làng Đông Thái (nay thuộc xã Tùng Ảnh), huyện La Sơn (nay là huyện Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh.
Huyện Đức Thọ - Tỉnh Hà Tĩnh cách Thủ đô Hà nội khoảng hơn 300 Km về phía Tây Nam. Nếu bạn xuất phát từ Hà nội bằng xe hơi thì sau khoảng 5 tiếng là tới. Qua Thành phố Vinh và đi qua sông Lam , đi thêm chừng 30 Km rẽ phải là đến Đức thọ. Đi tiếp khoảng 10 Km nữa là tới Bãi Vọt và Thị trấn Đức thọ. Thị trấn Đức thọ mới được xây dựng thời gian gần đây. Tại ngã tư trước khi vào Thị trấn đức thọ , có một con đường từ Hà nội lên và đi thẳng lên cửa khẩu Cầu Treo sang nước bạn Lào. Một đường vào Thị trấn và một con đường mới làm rất đẹp dẫn vào Linh cảm. Con đường này có từ khi mộ của Tổng Bí thư Trần phú được khánh thành. Huyện Đức thọ - Tỉnh Hà tĩnh là một vùng đồng bằng rộng lớn , tuy nhiên dân cư trong khu vực này còn thưa thớt. Toàn bộ Huyện Đức thọ được ôm bởi dãy Thiên Nhọn , có xuất phát từ dãy Trường sơn và con sông La hiền hòa hình vòng cung bao bọc.
Con sông La và một nhánh của nó ôm vòng lấy một cánh đồng rất rộng - Trong đó có khu địa Huyệt . Sông La và nhánh của nó chảy tới đây lững lờ như quyến luyến không muốn đi . Nhánh của sông La chảy nghịch Thủy , tạo thêm sinh khí rất mạnh cho toàn khu vực . Đây là một Long mạch rất lớn , bắt đầu từ dãy Trường sơn , có chi Long chạy về khu vực Đức thọ - Hà tĩnh ( Trong đó có đỉnh 30 ) . Con sông La bắt đầu từ hai con sông Ngàn Sâu , ngàn Phố từ dãy Trường Sơn , gặp nhau tại Linh cảm tại bến Tùng xoa ( Còn gọi là bến Tam xoa ) , chạy thêm chừng 20 Km nữa lại đổ vào sông Lam tại chợ Tràng ( Gần chợ Củi - Nơi có Đền thờ ông Hoàng Mười ) . Dãy Thiên lĩnh tại khu vực Bãi vọt gọi là dãy Hồng lĩnh có 99 ngọn núi . Dãy Thiên lĩnh nằm tại phía Bắc của khu vực . Sở dĩ gọi là Thiên Lĩnh hay Thiên nhọn vì cả dãy núi này có tới 999 ngọn núi , xuất phát từ Lào , Trường sơn , chạy qua Ngàn sâu , Ngàn Phố , kéo tới khu vực bến Tam xoa - Linh cảm . Tại khu vực này là một vùng có Long khí rất mạnh , nơi phát tích nhiều đời Vua , Quan thuộc loại Tứ trụ Triều đình . Nơi đây đặc biệt Phụ nữ rất đẹp và có tài , từng giúp cho các đức ông chồng thành đạt , thăng tiến trên đường công danh. Phụ nữ ở đây đa phần mình dây , da trắng , tóc dài , nói tiếng rất dễ nghe , dễ cảm. Ở đây có câu : " Vợ ngoan lo Quan cho chồng ". Đằng sau sự thành công của các Danh nhân xuất phát từ đất này , đều có công không nhỏ của những người Phụ nữ Đức Thọ.
Trong các làng thuộc Huyện Đức Thọ - Hà tĩnh , làng Đồng Thái là làng được xem là có nhiều người thành đạt nhất từ xưa cho đến nay. Làng này có khoảng 200 hộ dân , với khoảng 600 khẩu. Trong làng nổi lên nhiều dòng họ đã cung cấp nhiều bậc vĩ nhân cho đất ngước như : Họ Phan ( Có PHAN ĐÌNH PHÙNG , PHAN TRỌNG TUỆ , PHAN ANH , PHAN MỸ... ) ; Họ Mai ( MAI THÚC LOAN ) , Họ Hoàng ( HOÀNG CAO KHẢI.. ); Họ Bùi ( BÙI DƯƠNG LỊCH ) , họ Trần ( TRẦN PHÚ...); Họ Kiều ( KIỀU CÔNG TIỄN ) ; Họ Đinh ( ĐINH LIỆT , ĐINH LỄ ) , Họ Lê ( LÊ BÔI ) ; Họ Nguyễn ( NGUYỄN BIỂU ) ......
Xã Tùng ảnh ( là hình bóng của cây thông in trên núi ) , trước kia là làng YÊN VIỆT ; sau đổi thành Châu Phong , rồi Đức Phong và cuối cùng là Tùng Ảnh. Từ thời xa xưa cho đến ngày nay , xã Tùng ảnh luôn có người học giỏi , thi đậu cao , rất nhiều người có bằng cấp Tiến sĩ. Làng Đồng Thái - Xã Tùng Ảnh - Huyện Đức Thọ , trước kia là Phủ Đức Thọ - Tổng Việt yên.
Làng này tuy ở một vùng quê hẻo lánh song rất trù phú , đường là được lát bê tông , nhà cửa khang trang , đẹp đẽ.
Bên cạnh làng Đồng Thái có một làng nhỏ tục tên gọi là làng Nồi. Địa hình của làng này như một cái nồi úp trên mặt nước vì bốn phía là sông và cánh đồng . Làng này từ xưa đã truyền tụng câu : " Đầu làng là Tụng , Giữa làng là Họa , cuối làng là bần ". Bởi vì những hộ của phần đầu làng có truyền thống kiện tụng lâu dài , giữa làng thì xẩy ra rất nhiều tai họa quái gở , cuối làng vì cờ bạc nên nghèo mạt rệp. Hai xóm Yên hội Đông và Yên Hội Tây chuyên sống bằng nghề cờ bạc.
Tuy nhiên , rất ít người , kể cả người của làng Đồng Thái biết rằng : Những dòng họ của Đồng Thái phát mạnh mẽ và lâu dài đến như vậy không phải do đất Đồng Thái.
Thực chất , đất của làng quê Đồng Thái chỉ là được hưởng những khí chất tốt đẹp của một vùng đất gần núi , nơi là nghĩa trang chung của cả làng. Vùng đó chính là làng TRINH NGUYÊN , nơi đã hội tụ tất cả những Linh khí của cả vùng Đức thọ. Nơi đây cũng là nơi có phần mộ của Tổng Bí thư Trần phú. Nhìn chung Long mạch của vùng này , là nơi dùng chân của hành Long , xuất phát từ Tây tạng của Trung Quốc , vượt miền Tây Bắc , theo dọc dãy Trường sơn , một chi Long theo hai con sông Ngàn sâu , Ngàn phố về hợp lưu tại bến Tam xoa - Linh cảm. Nhìn chung địa hình vùng này , tất cả các núi đều đã tròn đầu , có hình dáng xinh tươi , đẹp đẽ ( Thường các bạn cứ để ý sẽ nhận biết được rằng : Khi mà các dãy núi đang hành Long thì có dạng nhấp nhô liên tục , đỉnh thường nhọn . Khi mà núi thưa dần và tròn đầu , hình dáng đẹp , cây cối xanh tốt là nơi mà Long mạch sắp dừng và kết Huyệt ). Long mạch vùng Linh cảm cũng vậy , tất cả các núi đều tròn và cách quãng theo từng đốt ( Mỗi đốt sẽ kết phát cho một Đời ). Phía Thanh Long có rất nhiều vòng ôm vào cuộc đất kết phát Long Huyệt. Tuy nhiên đầu Thanh long lại có chiều hướng duỗi ra xa , nên đàn ông ( Thanh Long là Dương , chủ về đàn ông ) phải ly Quê mới có thể thành tựu công danh được , những người ở lại tuy học vấn uyên thâm , nhưng bất quá chỉ là một anh Đồ làng. Nhánh Thanh Long có tới chín đốt , nên Long Huyệt này có thể kết phát tới 9 đời.Tuy nhiên , hiện nay vì tình trạng khai thác đất làm đường ( đất đỏ ) , quá tràn lan mà vô tình người ta đang tàn phá Long mạch này một cách trầm trọng.
Nhánh Bạch hổ bao gồm nhiều quả núi đất hình dáng tròn trịa như những trái Châu , lại có xu hướng ôm cuộn vào Long Huyệt . Bạch hổ là tượng Âm , tượng trưng cho phái nữ. Do vậy , Phụ nữ ở vùng Linh cảm - Đức thọ , vừa đẹp , vừa giỏi lại rất đảm đang.
Chính giữa của Tiểu Minh đường có một hồ nước rộng và rất đẹp ( Các bạn xem hình ở trên ). Trung Minh đường và Ngoại Minh đường là một vùng đất rộng lớn , xanh ngát màu của những ruộng lúa. Phía ngoài lại có nhiều sông lớn bao bọc hình vòng cung , chảy nghịch thủy , đem lại nhiểu Linh khí cho Long Huyệt."
( BÍ MẬT ĐẰNG SAU NHỮNG THÀNH ĐẠT CỦA CON NGƯỜI TẠI MỘT VÙNG QUÊ HÀ TĨNH - dienbatn).
Trong quá trình điền dã khảo sát tại Làng Đồng Thái - Xã Tùng Ảnh - Huyện Đức Thọ - HÀ TĨNH , dienbatn được biết tại khu từ đường của gia đình ông Kiếu Oánh trong thôn còn một ngôi mộ của Hoàng Tích Trí ( không rõ là con hau cháu của Hoàng Cao Khải ) nằm tại đây . Khu đất này ngày xưa là đất của gia đình Hoàng Cao Khải .
Ngôi mộ này đã xuống cấp trầm trọng nhưng vẫn được gia đình ông Kiếu Oánh thắp hương đều đặn.
Nếu cần liên hệ theo địa chỉ : ông Kiếu Oánh -Làng Đồng Thái - Xã Tùng Ảnh - Huyện Đức Thọ - HÀ TĨNH - Tel : 01276787424.
Xin theo dõi tiếp bài 9. dienbatn.