1. Lời Thuỷ Tổ đọc cho trần viết,
Lời hôm nay đặc biệt cho Dân,
Gửi nước Nam, các Bộ người Trần,
Việc của Thần vô ngần trọng đại.
Việc của Thần Đất nước đang phải,
Thần nước Nam đang phải lo ra,
Việc lớn cao phần Âm Nước nhà,
Khó hơn việc xưa ta đánh giặc.
Cán bộ ta chưa hiểu, chưa thông.
Giặc đang gây rối loạn lung tung,
Không ai hiểu việc cùng khó xử.
Chỉ những người làm Đạo có chữ,
Có tai nghe, mới hiểu được ra.
Chỉ những người hiểu Luật Thiên Toà,
Mới nghe ra, mới là hiểu được.
Biết bao nhiêu việc Âm trong nước,
Đã xảy ra trong nước Nam này.
Cán bộ Nhà nước không hề hay,
Để giải quyết việc này sáng tỏ.
Cho nước Nam, một nước đầu tiên
Được có Trời giáng Thế chỉ truyền,
Được có lời Thơ Tiên ban dạy.
Hồn Người Trời – không ai trông thấy,
Hồn Tổ Nước – không ai tỏ tường.
Hồn đọc lời cho dưới Trần dương,
Ghi lời Tổ, gửi Nhà nước Việt.
Ghi xong rồi, niêm yết gửi đi.
Gửi nguyên bản có chữ Thiên Tri,
Có chữ, lời viết ghi của Thánh.
Cho người ghi viết Sách Lệnh Trời,
Cho người ghi được nghe tiếng lời,
Lời của Trời, lời Tổ nước Việt.
Lời của Thánh đọc viết ban ra.
Gửi cho Nước, gửi cho Dân ta,
Việc gì cần, việc Thần trọng đại.
2. Một người viết, một người con gái
Người được trao nhiệm vụ lớn cao,
Từ hai bốn tuổi được học vào,
Giờ lên bà sáu ba tuổi lẻ.
Học phép Trời từ khi còn trẻ,
Mới thành công việc bé, việc to
Bao sức công học phép hàng kho,
Mới có phép để lo giúp Thánh.
Việc của Âm, Âm mách tỏ tường
Việc vô cùng hệ trọng cho Dương,
Cho Hạ giới biết đường lo liệu.
Phép của Trời ứng chiếu chỉ ra,
Những việc to, việc lớn gọi là
Việc Thiên Âm của là nước Việt.
Ai thảo ra những lời đặc biệt,
Những bài nào niêm yết gửi đi,
Hãy đề nghị Nhà nước cho thi,
Ban Nghiên cứu hãy đi nghiên cứu.
Chưa đúng lời của Thánh nước Nam,
Phải có nơi Thánh chỉ cho làm,
Việc sàng đồng Giao ban Thế kỷ.
Phải có nơi có lời Thiên chỉ,
Phải có nơi có Luật Lệnh Trời,
Phải có nơi có Luật Lệnh Người,
Của Tổ Tông Nước đời, Âm phủ.
Phải có nơi làm việc quy củ,
Có phép Thiên giáng hạ trên tay,
Viết chữ Thiên, nghe tiếng đủ đầy,
Việc Trời Đất, việc nay Tiên Tổ.
Cho người nghe biết Tổ của mình,
Ai là Gốc đã được Trời sinh,
Ai đã được định hình Tông Tổ.
Hồn Tông Tổ đã được kiên cố,
Tổ Lạc Long đã được nói ra,
Một cặp Cha – Mẹ là Tổ Nước.
Sinh Mẹ Cha Tổ nước Nam này,
Không có ai trên Mẹ Cha nay,
Đừng nghe lời giặc xưa ghi lại.
Hãy nghe Ta, Tổ nước Nam này
Hãy nghe Ta, Lạc Long nói nay
Tổ Nước này – Lạc Long đứng Chủ.
Cha Mẹ sinh dòng Tộc nước Nam,
Không phải ai nước khác họ sang,
Chỉ có Trời sinh ra Tổ Nước.
Sự thần thông kiếp trước kỳ tài,
Trời thứ Nhất, Tổ Nước thứ Hai
Là Cha Mẹ không ai thay được.
3. Có người xưa thật là bạo ngược,
Sang Nước ta định ước sẽ thành,
Đưa hồn giặc thật là hôi tanh,
Họ đã yểm vào nơi ghi lại.
Mộ từ xưa thuỷ tổ Nước mình,
Đấy là hồn tà ác yêu tinh,
Do giặc xưa cài vào dựng bịa.
Chúng đã yểm quân từ bốn phía,
Để giữ lưu hồn cốt nơi chôn,
Để lừa Dân, Dân giữ trường tồn
Bịa thuỷ tổ Nước nhà vĩ đại.
4. Cha đã cho một người con gái,
Ghế Bà Trưng, không phải ai đâu
Về Thuỷ Tổ – lời tâu đĩnh đạc.
Người chỉ huy được viết lời Cha,
Cha Lạc Long, Thuỷ Tổ Nước nhà
Mẹ Âu Cơ với Cha một Cặp.
Thành một Đôi, một Cặp sinh Con
Đã sinh trăm trai, gái tươi giòn
Để tiếp tục sinh người Hạ thế.
Trăm Họ người Gốc rễ, Cội nguồn
Từ đấy mới có Luật riêng,
Mỗi người một họ cho Dương thế trần.
Lấy nhau, sinh sản ra dân
Ra con cháu trần, chút chít về sau.
Không ai biết được từ đầu,
Chỉ có Trời Đất – Tổ đầu tiên sinh.
Thứ hai – Tổ Nước thực tình,
Chính là Cha Mẹ Nước mình, Âu Cơ
Mẹ sinh trăm trứng như mơ,
Phép Trời biến hoá sớm trưa thành người.
Ba ngày khôn lớn tốt tươi,
Một trăm ngày đời chia sẻ con ra.
Năm mươi con trai theo Cha,
Năm mươi con gái theo là Mẹ Tiên.
Lên rừng xuống biển, đôi miền
Để tìm cuộc sống lớn lên trưởng thành.
Gái theo Mẹ về rừng xanh,
Trong rừng hoa quả, chim oanh đón chào.
Cùng với thú rừng xôn xao,
Cây rừng, cành lá che vào ngày đêm.
Có Thần dẫn dắt sớm hôm,
Dạy làm các việc trên nương cấy trồng.
Việc làm do Ông Thần Nông,
Ông đã dạy trồng khoai sắn, lúa ngô.
Dạy xong, Ông Thần Nông dô
Ông đi về biển dạy vô việc làm.
Xuống sông, xuống biển rõ ràng
Mò cua, bắt cá để làm đồ ăn.
Năm mươi trai, gái rõ ràng hai nơi.
Một trăm ngày đêm chia rời,
Một năm tụ lại tại nơi sinh thành (365 ngày).
Tại đất Đền Hạ rõ rành,
Ngày xưa rừng trống, cây xanh, không nhà.
Các con quây quần ăn quà,
Quà từ vùng biển, quà là rừng xanh.
Bấy giờ các con vây quanh,
Nghe Cha Mẹ nói ngọn ngành đầu đuôi:
Các con là con của Trời,
Là con của Đất, Đất Trời sinh ra.
Là con Cha Mẹ Tổ Nhà,
Cha Trời Mẹ Đất sinh ra Mẹ Thầy.
Cha Mẹ sinh các con nay,
Có phải Tổ này chính thực Trời cao,
Chính thực Đất thấp thực vào,
Không phải ai khác sinh vào Mẹ Cha.
Các con gọi Tổ – Ông Bà,
Là Trời, là Đất mãi là về sau.
Đó là dòng Tộc dài lâu,
Đời đời Tổ chính một mầu Trời cao.
Các con phải nhớ tự hào,
Trời sinh Cha Mẹ có vào các con.
Đó là dòng giõi tươi giòn,
Cha Mẹ mới có các con bây giờ.
Cha Mẹ Tổ Nước đợi chờ,
Sau Cha Mẹ sẽ đọc Thơ báo Trần…
Cha Mẹ cho viết Sử Thần,
Sử Tổ Đất nước vô ngần lớn cao.
Sử của Tổ Tông tự hào,
Một người duy nhất viết vào Sử Thiên.
Đó là Trời đọc cho biên,
Sử Trời, Sử Nước thiêng liêng vô cùng.
Người có Hồn Thánh giáng chung,
Người được bắc ghế cho cùng Thánh Tiên.
Người được là người đầu tiên,
Viết lời Tông Tổ thiêng liêng thế này.
Người có hồn tái thế nay,
Hồn của Nước này được phép tái sang.
Cho nên người phải lo toan,
Làm các công việc Thiên Đàng trao cho.
Người đã lo được việc to,
Về Đền Thuỷ Tổ đã lo việc làm.
Buổi Lễ thật là song toàn,
Mẹ Cha hà hải việc làm vừa qua.
Cha cho được quay băng ra,
Gửi đến Nước nhà, gửi khắp cho Dân.
Ai xin, phô lại cho Trần
Đĩa hình truyền khắp xa gần nước Nam.
Đĩa hình này quý hơn vàng,
Đĩa hình có Lệnh Thiên Đàng của Cha.
Của Mẹ Âu Cơ Nước nhà,
Hồn Cha Mẹ đã đọc ra đĩa hình.
Lời của Cha Mẹ ân tình,
Đọc lời dạy khắp Nước mình Việt Nam.
Dạy cả con cháu chắt sang,
Ở bên Nước bạn biết sang Nước mình.
Nước mình có Tổ hồi sinh,
Qua từng thế kỷ cứu tinh Nước nhà.
Âm, Dương hoà hợp giúp ra
Cho Đất nước được thuận hoà tốt tươi.
Công ơn cao lớn của Trời,
Phù độ cho Đời, Đất nước Núi sông.
Công ơn của Tổ vun trồng,
Cho nước Nam có Phép Hồng lớn cao.
Công ơn Đảng, Bác tự hào
Mới có độc lập, có vào ngày nay.
Mới có Đất nước đổi thay,
Có nền Văn hoá Nước này lớn cao.
Có dòng Tộc Nước tự hào,
Đánh tan các giặc đã vào Nước ta.
Một Nước đã dám xông pha,
Làm chủ Nước nhà, làm chủ thành công.
Cả Nước đã nhất một lòng,
Theo lời Bác gọi đền công, báo thù.
Nước Nam đã được đắp bù,
Thoả lòng mong đợi ngàn thu vững vàng.
Hôm nay lời Tổ rõ ràng,
Báo toàn Dân, Nước biết sang lời Hồn.
Hồn Tổ Đất nước mong dồn,
Ngàn năm Văn hiến lời Hồn sẽ vang.
Vang khắp Đất nước Việt Nam,
Lời Hồn sẽ được nói sang cùng người.
Lời Hồn vang khắp Đất Trời,
Vang khắp Tổ quốc, khắp nơi gia đình.
Lời Hồn sẽ soạn thành Kinh,
Sẽ viết thành Sách chương trình gửi đi.
Viết lời Hồn của Thiên Tri,
Đọc cho trần viết lời ghi của Thần.
Lời của Tổ Tông giáng Trần,
Lời của Cha Mẹ phúc phần dài lâu.
Bài này là bài mở đầu,
Ngàn năm Văn hiến khai câu ứng Thần.
Cho người được viết toàn phần,
Là Phạm Thị Xuyến, không phần phải ai.
Lời Thơ Thánh đọc bên tai,
Lời của Tổ Nước, cả hai ban vần.
Ban tại Đền Thánh giáng Trần,
Một ngày tới gần sẽ được ban ra.
Vào ngày mùng Ba tháng Ba,
Vào ngày Giỗ Mẹ, Giỗ Cha về Trời.
Làm Lễ Giỗ ngay tại nơi,
Đền Hoà Bình được Lệnh Trời ban ra./.
(Bà Phạm Thị Xuyến ghi theo lời Thánh đọc tại đền Hoà Bình, ngày 25-3-2010, tức ngày 10 tháng 2 năm Canh Dần)