Với riêng cảm nhận cá nhân, có bốn dấu ấn đặc biệt khi nghĩ về ông mà có lẽ trong suốt cuộc đời mình luôn phải ghi ơn và nhớ mãi.
Thứ nhất: Vào đầu thập niên 80 thế kỷ trước, khi mà cuộc sống còn chật vật với những lo toan trước mặt; thì những buổi nói chuyện của Ông về niềm tự hào âm nhạc dân tộc trên sóng truyền hình trắng đen, vẫn có sức lôi cuốn nhiều tầng lớp người dân một cách lạ kỳ. Những lúc ấy Ông đi và về Việt Nam như con thoi chỉ để hỗ trợ và vực dậy giá trị truyền thống của nền âm nhạv dân tộc. Bắt đầu từ buổi nói chuyện về cuộc thi âm nhạc châu Á (CIM) do Ủy ban Giáo dục Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) tổ chức. Chính Ông là người tổ chức thu âm và đưa tiết mục hát Bội “Yến Phi Long Tiễn Chồng” đến với cuộc thi mang tầm cỡ châu lục này.
Kết quả tiết mục ấy đoạt giải nhất trong số 77 tiết mục của 10 quốc gia tham dự. Sở dĩ Ông chọn tiết mục này gởi tham dự là vì tình tiết độc đáo và bố cục nội dung vỡ diễn. Tuy chỉ có 15 phút âm thanh và chỉ với hai nhân vật, nhưng gói gọn nhiều chi tiết đặc sắc nhất của một câu chuyện, một vở hát. Đó là nhân vật nữ Phi Long, do cố NSND Năm Đồ (1916 – 1992) thủ diễn, với ba ly rượu tiễn chồng là Ô Hắc Lợi do cố nghệ sĩ Châu Kỷ (1926 – 1991) thủ diễn. Ba ly rượu ấy có đủ đầy những hỷ nộ, ái, ố. Cười đó rồi khóc đó và rồi mạnh mẽ lên trước mặt chồng ngày ra trận; đã thuyết phục được Ban Giám khảo cũng như các quốc gia có tiết mục tham gia.
Di ảnh cố Gs.Trần Văn KhêGiữa lúc phải chạy gạo ăn từng bữa ấy mà Nhà nước cũng không quên trân trọng những gia trị quý báu của gia sản nghệ thuật dân tộc, đã hết lòng hỗ trợ, giúp đỡ Ông thực hiện hoài bảo cao quý ấy, nên mới có những thành tựu quả ngọt như ngày hôm nay. Thật vô cùng đáng quý biết bao.
Thứ hai: Trong kho tàng âm nhạc dân tộc khắp cả ba miến Bắc-Trung-Nam, Ông đều có những mối quan tâm, chia sẽ đặc biệt. Nhưng nổi bật nhất là sự am tường về âm nhạc trong nghi lễ Phật giáo (tán tụng). Trong những lần nói chuyện Ông không ngần ngại so sánh những cách tán tụng của Phật giáo Trung Quốc với cách tán tụng của Phật giáo Việt Nam, và minh họa hết sức sinh động. Điều này làm tăng thêm niềm tự hào về một duyên mối của Phật giáo gắn liền với dân tộc trong nghệ thuật.
Phật giáo Việt Nam chúng ta bây giờ mới cảm thấy tiếc nuối khi suốt một thời gian dài, với hàng trăm buổi nói chuyện như thế của Ông, ở hội trường, sân khấu hoặc tại các chùa v…v…không nhanh nhạy ghi hình hoặc tối thiểu ghi âm lại để trao truyền cho các thế hệ Phật giáo mai sau. Cũng phải thôi vì Phật giáo Việt Nam chúng ta chưa có một đài phát thanh hay truyền hình đúng nghĩa để có thể thực hiện được những điều mình mong muốn, quá đáng tiếc biết bao!
Thứ ba: Cách phát âm của Ông trong diễn thuyết hay nói chuyện bình thưởng, nếu chú ý kỹ chúng ta sẽ thấy sự chính xác có chủ ý của Ông rất tinh tế. Ông là người con của Nam Bộ, điều đó chưa quan trọng bằng cách làm sao để người nghe không cảm thấy khó chịu về mỗi lời nói ngọng nghịu và trật lất chính tả. Là một người sống, học tập, định cư ở nước ngoài hơn nữa đời người mà Ông không hề để mất đặc tính quan trọng này thì thật đáng kính biết bao.
Như đã nói phẩn thứ nhất trên, có lẽ một phần người ta thích nghe những buổi nói chuyện của ông trên tivi lúc ấy chính là ở điểm này, và từ đó dạy bảo em cháu trong nhà thuận tiện hơn vì “có chứng cớ” đàng hoàng. Thế hệ chúng tôi ở lứa tuổi mẫu giáo, và ngay cả khi ở nhà, mỗi lần phát âm “ngọng” TR thành CH là bị vả mồm ngay. Cho nên nếu trên các phương tiện truyền thông không chú trọng điểu này thì sẽ rất khó cho các cô mẫu giáo và gia đình dạy em cháu mình phát âm đúng nhất.
Có nhiểu ý kiến cho rằng các Phát thanh viên, Biên tập viên của phát thanh hay truyền hình nên học tập cách phát âm của Ông. Sự cầu toàn thái quá, không theo một tiêu chuẩn nào sẽ gây khổ lụy cho không ít người xem – nghe đài, và đương nhiên trong giáo dục con cái trong nhà nếu chúng có ngồi cùng xem.
Giáo sư Tiến sĩ Trần Văn Khê khi phát âm từ TR hay TRUYỀN đều rất rõ. Ngay cái chữ VÀ cũng thế, Ông không nói theo cách người miền ngoài mà vẫn phân từ rõ ràng bằng cách đáng đầu lưỡi phía trên, khi đến chữ DÀ thì thỉ lại khác, để chiếc lưỡi nằm sát cầm dưới .v..v…Khi Ông nói “CHƠN Lý” (hoặc chơn chánh) để tránh chữ CHÂN là chân của chi dưới…Chữ TRƯƠNG nó phải khác chữ CHƯƠNG, Ông nói rất rõ ràng, không nhầm lẫn.
Thứ tư: Giáo sư Tiến sĩ Trần Văn Khê không phải diễn viên nhưng trong các bộ môn kịch hát dân tộc, thậm chí trong lĩnh vực ẩm thực, mỗi lời nhận xét của Ông cũng đều được trân trọng. Những cách minh họa hùng hồn của ông, những cách thị phạm của Ông cũng khiến giới mô phạm nghệ thuật kính nễ. Cái tâm của Ông đã là của dân tộc cho nên cung cách trong cuộc sống, trong giáo dục âm nhạc cũng đã là linh hồn dân tộc. Đó chính là bản chất sống, tận tụy của Ông.
Tất cả những điều đó đã thể hiện trong bản di nguyện của Ông trong những ngày cuối đời ở bệnh viện. Và hãy cứ nhìn lễ tang Ông, nhìn những người đến viếng linh cữu của Ông, để thấy hết cả cuộc đời cao đẹp ấy.
Sài Gòn 26/06/2015
Dương Kinh Thành