Blog Tâm Thức
Nhân quả báo ứng vụ 10 năm oan sai chấn động Bắc Giang
Thursday, 05/06/2014 00:00 am

Blog Tâm Thức

Hơn 10 năm tù tội oan ức, phạm nhân Nguyễn Thanh Chấn đã trở về đoàn tụ cùng gia đình trong vòng tay bè bạn, người thân. Hiện vụ án oan của ông Chấn đã bị Hội đồng thẩm phán TAND tối cao tuyên huỷ, một cái kết có hậu đối với ông Chấn.

Thế nhưng, ít ai biết rằng trong vụ án oan này, nhiều cán bộ liên quan đều bị chết đột ngột hoặc bị tai nạn dẫn đến mất trí nhớ. Dư luận không khỏi đặt câu hỏi: “Có hay không thuyết nhân quả” trong vụ án oan này.

Nguyễn Thanh Chấn

Những ngày qua, trong căn nhà cấp 4 tồi tàn của gia đình ông Nguyễn Thanh Chấn (52 tuổi, trú tại huyện Việt Yên, Bắc Giang) luôn ngập tràn hạnh phúc. Không vui sao được, bởi sau hơn 10 năm bị bắt giam một cách oan ức, ông Chấn được trở về đoàn tụ với gia đình, được ăn bữa cơm đầm ấm bên người vợ và các con.

Ông Chấn bảo rằng, đêm đầu tiên nằm bên cạnh vợ, ông không thể ngủ được, hai vợ chồng ôm nhau khóc bởi vì cứ tưởng đó chỉ là một giấc mơ trong câu chuyện cổ tích. Rồi ông khoe, sau 10 năm “ăn cơm tù”, ông không nhớ mình đã viết và gửi bao nhiêu lá đơn kêu cứu đến các cơ quan chức năng. Chỉ biết rằng, ngày ra khỏi trại giam, hành trang theo ông trở về nhà là những tấm phiếu trả lời “đã nhận được đơn” chất đầy trong ba lô của ông.

Ông Chấn kể, những ngày đầu bị tạm giam để phục vụ công tác điều tra, ông nhiều lần bị điều tra viên ép phải nhận đã ra tay sát hại chị Nguyễn Thị Hoan. Nếu kêu oan, họ lại xúm vào đánh đập ông không thương tiếc. Quá sức chịu đựng, ông buộc phải nhận mình là hung thủ đã sát hại chị Hoan vào ngày 15/8/2003. Khi đó, một cán bộ tên T đã hướng dẫn ông viết một lá đơn tự thú khai nhận là hung thủ giết người.

Nhân quả báo ứng vụ 10 năm oan sai chấn động Bắc Giang - Ảnh 1

Những giọt nước mắt hạnh phúc của ông Nguyễn Thanh Chấn trong ngày đoàn tụ

Nhớ lại những ngày tháng kinh hoàng trong trại tạm giam, ông Chấn nói: “Điều tra viên tên D đánh và bắt tôi tập đi tập lại các động tác để thực nghiệm tại hiện trường vụ án mạng. Mỗi lần thực hiện sai các động tác, tôi lại bị những cán bộ này lao vào đánh đập. Tại các phiên toà, tôi đã nhiều lần khai bị ép cung nên mới nhận tội nhưng HĐXX không chấp nhận mà yêu cầu tôi đưa ra bằng chứng”.

Sau khi vụ án có hiệu lực pháp luật, ông Chấn bị đưa đi cải tạo tại trại giam Vĩnh Quang (Vĩnh Phúc), nhưng ít ai biết rằng, chỉ một thời gian ngắn sau đó đã có hai điều tra viên của vụ án đều bị chết đột ngột do tai nạn giao thông và bệnh tật. Thậm chí, Thẩm phán Nguyễn Minh N – Chủ tọa phiên xét xử sơ thẩm cũng bị tai nạn giao thông vào năm 2010. Ông N may mắn thoát chết nhưng hiện tại vẫn đang phải điều trị do bị ảnh hưởng đến não.

Một nguồn tin cho biết, sau khi sát hại chị Hoan, Chung bỏ lên Lạng Sơn gặp một người thân là chị Lý Thị N và cho biết hắn chính là hung thủ gây ra vụ án mạng tại Bắc Giang. Khi đó, Chung có đưa hai chiếc nhẫn kim loại màu vàng nhờ chị N mang bán hộ nhưng biết đây là tài sản của vụ “giết người, cướp tài sản” nên chị N đã từ chối.

Sau đó, Chung đã nhờ anh trai của mình đang sinh sống tại Lạng Sơn mang nhẫn đi bán. Hậu quả, cuối năm 2005 (2 năm sau khi vụ án xảy ra), người anh trai này đã bị một số đối tượng ở Lạng Sơn đâm chết trong một vụ xô xát nhỏ.

Liên quan đến vụ án này, Cơ quan Điều tra Hình sự – Viện KSND Tối cao đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can, bắt tạm giam Lý Nguyễn Chung để điều tra về hành vi giết người, cướp tài sản. Đồng thời, cơ quan điều tra cũng bắt khẩn cấp Lý Văn Chúc (bố đẻ của Chung) để điều tra hành vi đe dọa giết người. Theo thông tin ban đầu, ông Chúc đã có hành vi đe dọa một số người biết hành vi gây án của con trai mình và đe sẽ giết họ nếu những người này dám tố cáo tới cơ quan công an.

Trong một diễn biến khác, đến cuối giờ chiều ngày 6/11, Hội đồng thẩm phán TAND tối cao đã tiến hành xét xử theo trình tự tái thẩm và tuyên huỷ bản án sơ thẩm của TAND tỉnh Bắc Giang và bản án phúc thẩm của TAND tối cao. Với phán quyết trên, trong quá trình điều tra ở gian đoạn tới, nếu cơ quan tố tụng chứng minh được hung thủ gây án chính là Lý Nguyễn Chung, còn ông Chấn không phải là thủ phạm thì Tòa phúc thẩm TAND Tối cao (cơ quan xét xử cuối cùng vụ án) sẽ phải bồi thường oan sai theo Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước.

Khi đó, ông Chấn có quyền đâm đơn kiện ra TAND huyện Việt Yên yêu cầu Tòa phúc thẩm TAND Tối cao bồi thường các khoản: thiệt hại do tài sản bị xâm phạm, thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút, thiệt hại do tổn thất về tinh thần, thiệt hại về vật chất do bị tổn hại về sức khỏe. Đây cũng là một cái kết có hậu cho ông Chấn và là bài học cảnh tỉnh với các cơ quan tiến hành tố tụng; cần tôn trọng sự thật, không áp đặt ý chí chủ quan vào vụ án.

Theo Bình Minh (Gia đình & Xã hội)

Thuyết nhân quảThuyết nhân quả của nhà Phật, nói đủ là nhân-duyên và quả là một triết lý mang tính khoa học, qui luật tự nhiên của vũ trụ, không mang tính chất hình thức của sự thưởng phạt từ một đấng quyền năng nào. Hiểu vậy, trong cuộc sống, chúng ta vui vẻ đón nhận những khổ đau bất thường xảy đến với mình như một kết quả do chính mình tạo nhân từ trước. Từ đó suy nghiệm ra, lý nhân quả chi phối cả vũ trụ nhân sinh. Nếu tin sâu nhân quả, chúng ta sẽ được thăng hoa trên đời sống tâm linh, trở nên hiền thiện đạo đức. Ngược lại, nếu không tin nhân quả, cuộc sống chúng ta trở nên liều lĩnh và càn bừa, bất chấp hậu quả.Nói về lĩnh vực khoa học, từ nhân đến quả là sự chuyển biến tự nhiên. Đức Phật khám phá lý nhân quả cũng chính là khám phá lý khoa học tự nhiên để áp dụng tu hành, đạt đến lý tưởng siêu nhiên. Cho nên, Đạo Phật vừa mang tính khoa học tự nhiên, vừa là khoa học siêu nhiên như nhà bác học Einstein đã nói: “Đạo Phật là khoa học vừa mang tính tự nhiên vừa siêu nhiên”.

Vũ trụ nhân sinh luôn chuyển biến vận hành trong mọi thời khắc. Có thể nói, bản thân chúng ta, hoạt động tâm lý và tất cả các pháp đang chuyển biến liên tục, không dừng trụ dầu chỉ một sát na. Quá khứ, hiện tại và vị lai luôn chuyển biến theo chiều hướng nhân quả. Nhân quả cũng tức là vô thường, là chiều thời gian chuyển biến liên tục trong tự thân của vật thể và trong hoạt động tâm lý. Vũ trụ nhân sinh chuyển biến vận hành theo một quy luật chung, đó là  luật nhân quả. Nó vận hành một cách âm thầm, chỉ những người nào đầy đủ quán trí sẽ thấy rằng quy luật chi phối cả đời sống vật chất, vật lý, sinh lý và tâm lý.

Đức Phật khám phá lý nhân quả, vô thường, duyên sinh, cuối cùng đạt đến chỗ siêu nhiên, tức phi thiện phi ác, là cảnh giới của người giải thoát. Đến với Đạo Phật, học hiểu đạo lý để chuyển hóa bản thân, bớt những đắm nhiễm, đam mê vật chất. Khoa học ngày càng tân tiến, khám phá những quy luật của tự nhiên để tạo ra sản phẩm cung ứng cho lòng tham vô bờ của con người. Còn Đạo Phật cũng khám phá về nhân quả, vô thường, duyên sinh nhưng giúp con người hiểu đạo lý, sống biết cách đối nhân xử thế, làm đẹp bản thân, gia đình và xã hội. Cho nên, đến với Đạo Phật là đến với đời sống tâm linh. Khi chúng ta có chánh kiến về nhân quả, chắc chắn đời sống chúng ta sẽ được thăng hoa. Nghĩ, nói và làm có lợi cho mình, cho người, không nghĩ điều quấy, nói lời xấu và làm việc ác.

Có thể nói, phương pháp giáo dục phổ thông của Đạo Phật được tìm thấy ở đạo lý nhân quả. Khi chúng ta làm một việc sái quấy, có hại cho người khác, có khi trốn được tòa án ở thế gian nhưng không trốn chạy được chính lương tâm của mình. Mình chính là gương nghiệp in bóng trước đài, là quan tòa xử án công minh cho những hành vi tội lỗi nơi bản thân. Giáo dục về nhân quả giúp mình sửa đổi cái hư dở nơi lương tâm chúng ta chứ không phải giúp mình trốn chạy trước pháp luật bên ngoài. Nhân quả nhà Phật chú trọng đến động cơ luận hơn là kết quả luận, phòng cháy chứ không chờ chữa cháy. Giáo dục của Đạo Phật là giáo dục từ ban đầu khi khởi tâm niệm bất thiện, trước khi xảy ra điều tệ hại, khuyên mọi người ăn hiền ở lành, hiểu biết nhân quả, tội phước, thì tự nhiên trở thành người tốt. Vì vậy, người nào hiểu được nhân quả thì đời sống người đó được bình yên. Một người ác có thể trở thành người hiền, một người xấu xa hèn hạ có thể trở thành một người tốt. Từ đó từng bước cải hóa trở thành bậc Hiền, bậc Thánh.

Đối với nhà Thiền, khi niệm thiện niệm ác đều quét sạch, trực giác phát sinh, con người sống trong trạng thái phi thiện phi ác, nhưng việc thiện ác trên thế gian vẫn quán xuyến, không lầm. Đó là người đang ở trong trạng thái thiền định, có đời sống không niệm khởi.

Đức Phật dạy, trên cuộc đời này có bốn hạng người: Hạng người thứ nhất, từ tối vào nơi tối. Hạng người thứ hai, từ tối đi ra sáng. Hạng người thứ ba, từ nơi sáng đi vào tối. Hạng người thứ tư, từ nơi sáng đi đến sáng.

Thế nào gọi là từ tối đến tối? Nghĩa là người đó sanh trong một gia đình nghèo khổ, kém văn hóa, không có đạo đức, lại không học hiểu đạo lý, với ý nghĩ ác, miệng nói ác, thân làm ác, nên gọi là từ tối mà đến tối.

Hạng người thứ hai, từ tối đến sáng, nghĩa là người này sanh trong một gia đình nghèo khổ, không có văn hóa, không có đạo đức, nhưng tự thân người đó nỗ lực tu hành, ý nghĩ điều lành, miệng nói điều lành, thân làm việc lành, ngày càng thăng hoa trên đời sống đạo đức, nên gọi là người từ tối mà đến sáng.

Hạng người thứ ba, từ nơi sáng đi vào tối, nghĩa là họ sanh trong một gia đình khá giả, có văn hóa, có đạo đức, nhưng bản thân lại nghĩ điều ác, miệng nói ác, thân làm ác, không biết đến đạo lý, nên gọi là từ sáng đi đến tối.

Hạng người thứ tư, từ sáng đi đến sáng, nghĩa là người này được sanh ra trong một gia đình khá giả, có đạo đức, văn hóa, lại biết tu học, ý nghĩ điều lành, miệng nói lành, thân làm lành. Đây là hạng người hữu phước, gọi là từ sáng đến sáng.

Tất cả chúng ta sống trong cuộc đời này đều do nghiệp quả biểu hiện từ những kiếp trước. Mọi hậu quả chúng ta đang mang đều chính do bản thân chúng ta tạo tác. Các pháp chuyển biến từ trạng thái này sang trạng thái khác, tâm lý chuyển biến từ trạng thái này đến trạng thái khác, thì nghiệp cũng chuyển biến từ trạng thái này đến trạng thái khác, không có cái gì đứng yên một chỗ. Vì vậy, nghiệp có thể chuyển, từ người ác có thể thành người hiền, từ người hiền nếu không tu cũng có thể trở thành người ác.

Nhân quả thể hiện qua ba phạm trù thời gian, gọi là hiện báo, sanh báo và hậu báo.  Hiện báo là kết quả trổ ngay trong hiện kiếp, có thể ngay tức khắc, hoặc một ngày, một tháng, một năm, nhiều năm…trong một đời này. Sanh báo là kết quả trổ ở kiếp sau khi vừa thọ nhận một thân mới. Vì vậy, có những người tạo việc lành bây giờ mà vẫn gặp điều không tốt vì nhơn ác đã tạo từ kiếp trước. Hậu báo là khi mình tạo việc lành hay việc dữ ở kiếp này, quả không trổ liền ở kiếp này hay kiếp tiếp theo mà nhiều kiếp về sau mới trổ, vì duyên chưa đủ. Y cứ về lý nhân quả mà nói ba thời, ba khía cạnh của nhân quả.

Nhà Phật có nói: “Phàm làm việc gì phải nghĩ đến kết quả của nó”. Con người chúng ta làm việc đôi khi do bản năng, tính háo thắng hoặc thiếu suy nghĩ mà không lường trước những hậu quả của nó. Phần lớn những sự thất bại trong công việc đều do những yếu tố chủ quan trên mà ra. Vì vậy, áp dụng đạo lý nhân quả vào các công việc xã hội, chúng ta sẽ có được những thành công trong lao động. Người hiểu luật nhân quả sẽ không cho phép mình suy nghĩ, nói năng và làm việc xấu. Nếu mọi người ai cũng được vậy thì đất nước sẽ văn minh, xã hội có văn hoá, gia đình sẽ hạnh phúc. Vì thế, giáo dục con người biết suy nghĩ tốt, làm việc lành là một nhiệm vụ cao cả và thiết yếu.

Những ai có niềm tin xác tín về nhân quả, thiện ác, dĩ nhiên khi suy nghĩ, nói năng hay hành động gì đều phải có thái độ thận trọng. Một tách nước trà lỡ đổ xuống đất, muốn lấy lên lại không dễ. Một ý nghĩ, lời nói, hành động xấu ác buông ra lỡ lầm, mang lại một hậu quả ghê gớm khôn lường. Một bài kệ nói về nhân quả như sau: “Dục tri tiền thế nhân/ Kim sanh thọ giả thị/ Dục tri lai thế quả/ Kim sanh tác giả thị.” Tạm dịch: “Muốn biết nhân đời trước/ Xem thọ nhận đời này/ Muốn biết quả đời sau/ Xem tạo tác đời này.”

Cái thọ dụng trong cuộc sống này, chánh báo và y báo của mình, xem thử mình mang thân như thế nào, con người có hạnh phúc hay không, nghèo hay giàu, ngu hay trí… cứ nghiệm lại mà biết rằng nhân đời trước mình tạo là nhân gì. Nho giáo có câu:“Nhất ẩm nhất trác, giai do tiền định”. Một cái ăn, một cái uống, một cái mặc cũng đều do tạo nhơn lành hay dữ ở kiếp trước. Muốn biết kết quả kiếp sau ra sao, nơi kiếp này hãy suy xét sự tạo tác của thân – khẩu – ý của mình ra sao. Nếu chúng ta có chánh kiến về nhân quả sẽ có thể biết được quá khứ, hiện tại, vị lai của mình và người như thế nào, từ đó quyết chí tiến tu để mỗi ngày được thăng hoa hơn trên lộ trình tu tập.

Qua thuyết nhân quả của Đạo Phật cho chúng ta thấy có sự tái sanh, luân hồi, có quả báo khổ vui trong các kiếp sống. Các vị Đạt Lai Lạt Ma bên Tây Tạng đã nói đến thuyết tái sinh, đi tìm hậu thân và các cõi sống. Thân ngũ uẩn của chúng ta đều do nghiệp lực mỗi người vẽ ra mà có sự sai biệt về hình dáng, tính cách, hoàn cảnh. Cho nên, mình là Thượng đế của chính mình, tự tạo ra hoàn cảnh chánh báo và y báo cho chính mình. Người hiểu đạo lý, niềm tin này làm cho họ tự ý thức dè dặt, thận trọng trong mọi ý nghĩ, lời nói, việc làm của mình, chuyên tu ba nghiệp cho được thanh tịnh, ngõ hầu chuyển hóa bản thân, gia đình và xã hội đều dứt ác hành thiện.

Là người Phật tử chân chính, phải có sự tin tưởng tuyệt đối về lý nhân quả vì là một lẽ thật. Chúng ta có thể kiểm nghiệm ở nơi hiện tượng hữu sanh hữu diệt theo chiều nhân quả, từ đó áp dụng tu tập cho bản thân mình và mọi người, chuyển đổi những hư dở, xấu ác nơi mình, góp phần vào đời sống gia đình và xã hội được bình an, phúc lạc. Tin nhân quả, chúng ta tự ý thức dè dặt từng bước đi trong cuộc sống này, chính bản thân mình sống có ý nghĩa. Và, chúng ta đem cái ý nghĩa đó làm những việc hữu ích cho mọi người. Giáo dục con người biết tin nhân quả thì bản thân họ được an vui, gia đình họ được hạnh phúc và xã hội được ổn định trật tự, làm nền tảng xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh.
HT Thích Thông Huệ

Theo: Người đưa tin

TAMTHUC