No icon

cac-vi-than-an-do-trong-tin-ngung-ba-la-mon-va-hindu-giao-bai-

CÁC VỊ THẦN ẤN ĐỘ TRONG TÍN NGƯỠNG BÀ LA MÔN VÀ HINDU GIÁO. BÀI 6.

CÁC VỊ THẦN ẤN ĐỘ TRONG TÍN NGƯỠNG BÀ LA MÔN VÀ HINDU GIÁO.


Lời tựa : Lẽ ra các bài tiếp theo trong mục : MẬT TÔNG - ĐẠO PHÁP - HUYỀN MÔN là những bài trong tập 2 cuốn THẦN THÁNH TRUNG HOA do bác Nhược Thủy dịch. Tuy nhiên  dienbatn đăng tiếp loạt bài  CÁC VỊ THẦN ẤN ĐỘ TRONG TÍN NGƯỠNG BÀ LA MÔN VÀ HINDU GIÁO để thay đổi không khí . Loạt bài viết này , dienbatn biên soạn lại theo những tư liệu sưu tầm được, những tư liệu đã đăng trên internet . Do vậy có thể có nhiều đoạn không ghi nguồn xuất xứ . Mong các tác giả lượng thứ khi dienbatn trích dẫn mà không ghi nguồn. dienbatn chỉ biên tập lại thành hệ thống làm tư liệu của mình và giúp các bạn tư liệu khi cần khảo cứu. Xin chân thành cảm ơn các tác giả đi trước. Thân ái . dienbatn.
3. Các vị thần khác .
2/Thần Sarasvati, nữ thần của học vấn và là thần đỡ đầu của nghệ thuật, khoa học và ngôn từ - Vợ của Brahma . 

Saraswati (Sanskrit: सरस्वती, Sarasvatī ?) là một vị thần trong đạo Hindu (Nữ thần Devi), thần của tri thức, âm nhạc, nghệ thuật và thiên nhiên. Bà là một trong ba vị thần bao gồm Saraswati, Lakshmi and Parvati. Ba nữ thần cùng nhau hỗ trợ các nam thần là Brahma, Vishnu và Shiva trong sự sáng tạo, duy trì sự sống và sự hủy diệt của vũ trụ.
Tên vị thần trong Tiếng Miến Điện là Thurathadi (သူရဿတီ, phát âm [θùja̰ðədì] hay [θùɹa̰ðədì]) hay Tipitaka Medaw (တိပိဋကမယ်တော်, phát âm [tḭpḭtəka̰ mɛ̀dɔ̀]), trong Tiếng Hoa là Biàncáitiān (辯才天), trong Tiếng Nhật là Benzaiten (弁才天/弁財天) và trong Tiếng Thái là Surasawadee (สุรัสวดี).
Sarasvati là người phối ngẫu của Thần Sáng Tạo Brahman – một trong ba vị thần chúa tể của Hindu giáo. Nữ thần được mô tả trong nghệ thuật Ấn với một cung cách uy nghi sang trọng, mặc sari trắng, ngự trên tòa sen trắng, có bốn tay cầm các thứ như: kinh sách-xâu chuỗi hoặc hoa sen trắng–đàn sita. Bốn tay này còn tượng trưng cho bốn khía cạnh của con người trong chuyện học tập: trí nhớ-thông minh-sự nhanh trí và bản sắc cá nhân. Vật cưỡi của Nữ Thần là con ngỗng trắng.
 Lễ cúng Nữ Thần được gọi là Sarasvati Puja
 Có một phong tục Hindu là: nếu ai nuốt được bảy hạt gạo (tượng trưng cho các bộ môn văn học nghệ thuật) dâng cúng cho Nữ Thần Kiến thức, người đó sẽ trở nên thông thái học một biết mười. Thế là học trò chen lấn nhau giành giật từng hạt gạo rơi ra từ các bàn thờ trong đền thờ Sarasvati.
Các đồ cúng trong ngày Vasant Panchami: quan trọng nhất là đèn bơ, gạo , bột vàng và phấn (để viết tên lên các bề mặt quanh đền).
Saraswati được xem là một nữ thần cực kì xinh đẹp, mặc bộ sari trắng, có 4 cánh tay.   Thần thường cầm đàn Mala tượng trưng cho âm nhạc và cành cọ, tượng trưng cho trí tuệ, thần cưỡi trên lưng con Thiên Nga tay cầm một cuốn sách.
Thần còn là nữ thần của Lời nói (Trí tuệ được diễn đạt qua lời nói).Theo Veda, trước kia Sarawasti là một con sông thiêng, đã bị lời nguyền của nhà hiền triết Utathya làm cạn khô.Trong lễ thờ nữ thần Saraswati, người ta thường đặt một cây bút, giá để bút và một quyển sách trước tượng thần."Trong thần thoại Ấn Độ,Nàng là nữ thần của các con sông và vị thần bảo hộ của ngôn luận,sự lắng nghe và ghi nhận,nghệ thuật và khoa học.Chồng của nàng là Brahma."
Trong Ấn Độ giáo Saraswati (tiếng Phạn: सरस्वती sarasvatī) là nữ thần của kiến ​​thức, âm nhạc và nghệ thuật. Cô là vợ của Brahma.Saraswati được coi là "mẹ của các Vedas".
 Saraswati được biết đến như một vị thần hộ mệnh của Phật giáo,Nàng đã duy trì những lời dạy của Phật bằng cách bảo vệ và trợ giúp cho các tín đồ. Cô được biết đến ở Miến Điện là Thurathadi hay Tam Tạng Kinh Medaw. Trung Quốc như là Biàncáitiān (辩才 天),ở Thái Lan như Surasawadee (สุรัสวดี) và tại Nhật Bản như Benzaiten (弁 才 天 / 弁 财 天).

Trong các tiểu bang Bihar, Ấn Độ Đông, Tây Bengal, Orissa Saraswati được coi là một con gái của Durga cùng với chị gái là Lakshmi và anh trai là: Ganesha và Karthikeya.
Trong Rigveda, Saraswati là một con sông cũng là một nữ thần. Trong thời đại Vệ Đà sau, cô bắt đầu để mất tước vị như một nữ thần sông và ngày càng trở nên gắn liền với văn học, nghệ thuật, âm nhạc,v.v... Trong Ấn Độ giáo, Saraswati hiện thân của sự thông minh, ý thức, kiến ​​thức về vũ trụ, sáng tạo, giáo dục, giác ngộ, âm nhạc, nghệ thuật, tài hùng biện và quyền lực.
Sarasvati vẫn còn tồn tại trong thế giới Ấn giáo ngày nay, và có tầm quan trọng còn hơn chính cả Brahma. Trong sự sùng bái thông thường, Sarasvati là biểu tượng của Thần Nữ Tri Thức và Học Vấn. Có thể nguồn gốc của Sarasvati liên hệ đến truyền tích làm khô cạn dòng sông Sarasvati ở Rajasthan, nhưng không như Brahma, thần nữ Sarasvati vẫn còn đóng vai trò quan trọng trong sự sùng bái của người Ấn giáo mãi cho đến ngày nay. Hình ảnh Sarasvati thường thấy là màu trắng, cỡi trên lưng con thiên nga, tay cầm một cuốn sách. Sarasvati có thể được thấy với nhiều đầu và nhiều tay, biểu tượng cho sự gia hộ tất cả các môn học về khoa học và nghệ thuật. Sarasvati được tôn sùng nhiều nhất ở các trường và đại học.
Nghĩa đen của tên Sarasvati là một trong những người cung cấp cho các kiến thức cần thiết (Sara) . Nữ thần Sarasvati cũng được coi là  giáo dục, trí thông minh, hàng thủ công, nghệ thuật, và kỹ năng. Cô là vợ của Brahma, người được coi là nguồn gốc của tất cả các kiến thức, Sarasvati là kiến thức bản thân. Vì vậy, nhiều sinh viên hoặc thậm chí các học giả có thể tôn thờ nàng cho phước lành của cô. Cô được miêu tả là trắng da, và khá xinh đẹp và duyên dáng.
Cô thường được miêu tả ngồi trên tòa sen, tượng trưng cho những kinh nghiệm của các chân lý tuyệt đối. Vì vậy, cô không chỉ có kiến thức mà còn là kinh nghiệm của thực tế cao nhất. Cô giữ trong bốn tay cô một một akshamala ( chuỗi hạt cầu nguyện) ở trong tay phải, và một Pustaka (cuốn sách) ở bên trái, đại diện cho kiến thức của tất cả các ngành khoa học. Cầm cuốn sách hay kinh điển trong một tay cũng chỉ ra rằng kiến thức này có thể đưa chúng ta đến sự thật. Các hình tượng cho thấy vẻ đẹp của  mỹ thuật,  và trí tuệ với kiến thức của mình, và do đó người tôn thờ cô có thể hòa hợp với vũ trụ. Các hạt cầu nguyện đại diện cho tất cả các ngành khoa học tâm linh, như thiền định và japa (chanting tên của Thần linh), và được nắm trong tay phải, nó là quan trọng hơn kiến thức thế tục chứa đựng trong cuốn sách trong tay trái của cô.Bốn tay này còn tượng trưng cho bốn khía cạnh của con người trong chuyện học tập: trí nhớ-thông minh-sự nhanh trí và bản sắc cá nhân. Bốn cánh tay cô đại diện cho quyền lực không giới hạn của mình trong bốn hướng. Cô cũng thể hiện sự sáng tạo, hoặc sự kết hợp của sức mạnh và trí thông minh, sự sáng tạo.

Tên của cô có nghĩa là một dòng chảy, có thể được áp dụng cho những suy nghĩ, lời nói, hoặc dòng chảy của một con sông. Cô là vị thần của một con sông trong Rig-Veda. Cô có các tên khác bao gồm Sarada , Brahmi (vợ của Brahma), Mahavidya (chủ kiến thức tối cao), Bharati (hùng biện), Maha-Vidya (kiến thức siêu việt), Arya (một quý tộc), Maha-vani (siêu việt ), Kamadhenu , Dhaneshvari (thiên tính của sự giàu có), và Vagishvari (lời nói yêu thương). Nó là kiến thức biểu hiện bằng hành động. Nó là thông qua ngôn ngữ mà cô và viết được tiết lộ.
Cô cũng là đôi khi hiển thị với năm khuôn mặt và tám tay, đại diện cho quyền hạn của mình. Đôi khi cô cũng thấy cưỡi trên một con thiên nga, là phương tiện vận chuyển của người phối ngẫu , Brahma. Vào những lúc khác, cô được nhìn thấy lần cưỡi trên một con công . Con công đại diện cho vẻ đẹp của thế gian, mà có thể làm sao lãng sự mong mỏi tinh thần. Con thiên nga nghĩa việc mua lại của trí tuệ và kiến thức, vì nó có khả năng tách sữa từ nước khi ăn, và do đó nó thu được sữa.
Sarasvati cũng là shakti hay quyền lực và vị phối ngẫu của Brahma, đấng sáng tạo của vũ trụ. Vì vậy, cô cũng được coi là một người mẹ của vũ trụ. Bằng cách này, cô cũng được tượng trưng cho khả năng sinh sản.


Phù điêu nữ thần Sarasvati, phát hiện tại tháp Chánh Lộ.
 Người ta đi đến các đền miếu Sarasvati để lễ bái trong ngày Vasant Panchami. Ở Kathmandu, Ngôi đền linh thiêng nhất cho ngày này lại chính là đền Manjusri trên đồi Swayambu.
Thật ra không lạ vì Manjusri-Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát trong truyền thống Phật giáo chính là Bồ Tát chủ về Kiến Thức-Học Vấn. Người Hindu ở Kathmandu thì cho rằng ngôi đền này là đền Sarasvati còn Phật tử thì cả quyết đó là đền Manjusri, người sáng lập ra Kathmandu. Mọi chuyện tranh cãi bắt nguồn từ lịch sử thành lập Kathmandu trong huyền sử .
Đền Majusri-Sarasvati trên đồi Swayambhu.

Thần Sarasvati - niên đại TK XII.
Brahma là vị Thần sáng tạo, đem sự vật từ trạng thái hỗn nguyên vô định sang trạng thái cá thể phân biệt. Brahma sanh ra từ một quả trứng vàng kết tinh trong lòng biển « Vô Xứ », hay, theo một truyền thống khác, nảy sanh trong một đóa sen nở ra từ cái rốn của Vishnu, trong khi Vị này nằm ngủ trên mặt biển. Phải chăng cuộc sống cũng như vũ trụ phân biệt trong bản chất chỉ là một giấc mơ (Vishnu ngủ mơ  thấy vũ trụ), nảy sanh từ tính chấp ngã, từ sự chiêm ngưỡng cái rốn của mình (hoa sen nở từ rốn của Vishnu cho ra Brahma ). Mơ ngủ cũng là VÔ MINH, nên sự vật trong căn bản không có thực tánh, mà chỉ là hệ quả của vô minh, một quan niệm sau này được lập lại trong Phật Giáo.

            Từ trán của Brahma, sanh ra một nữ thần, Sarasvati, con gái của ngài. Huyền thoại Hy Lạp cũng có chuyện tương tự với Athena sanh ra từ đỉnh đầu của Zeus. Địa vị của Zeus và Brahma có thể được coi như tương đương.
Sarasvati nhảy múa quanh Brahma. Và Brahma động lòng thèm muốn con gái mình. Sarasvati uốn éo trước mặt Brahma, rồi sang bên trái, sang phía sau, sang bên phải của Ngài. Mỗi lần như vậy Brahma lại mọc thêm một cái đầu. Tổng cộng bốn cái, mỗi cái nhìn về một hướng. Phải chăng vị Thần sáng thế cũng đã sáng tạo ra cái quy luật luân lý lên án sự loạn luân, khiến Ngài không thể tự cho phép mình quay đầu nhìn theo người đẹp như mỗi người chúng ta ? Chưa hết, Brahma ý thức sự ham muốn loạn luân của mình, nên mọc thêm một cái đầu thứ năm, lần này không nhìn Sarasvati nữa mà nhìn lên trời, như tìm một sự thăng hoa, giải thoát. Cái đầu thứ năm này mang búi tóc, biểu tượng của sự tu hành, của người Đạo Sĩ. Vấn đề loạn luân đặt ra ở đây phù hợp với quan điểm của Claude Lévi Strauss, cho rằng ranh giới giữa thuần phác tự nhiên (nature) và văn hóa văn minh (culture), tức cái ranh giới gữa con người và súc vật, nằm ở  những quy luật về loạn luân. Cũng cần nói Sarasvati là Nữ Thần của nghệ thuật, của hiểu biết, văn hóa, văn minh. Chữ Sanskrit, một biểu tượng văn hóa, được coi như một phát minh của Bà. Tựu trung, trong tiến trình sáng tạo thế giới, và đồng thời tự tạo, Brahma thoát khỏi trạng thái « thiên nhiên » và bước vào « văn hóa », « văn minh » với ý thức … loạn luân ! Có thể nói là chính vào lúc ấy, Brahma đã trở thành « người » …( http://nguyen.hoai.van.pagesperso-orange.fr/).


Cầu nguyện Saraswati Devi.
सरस्वती देवि प्रार्थन 
शुद्धां ब्रह्म विचारसार परमां आद्यां जगद्व्यापिनीं
वीणा पुस्तक धारिणी मभयदां जाढ्यांधकारापहं  
हस्तेस्पाटिक मालिकांवद धतीं पद्मासने संस्थितां
वंदेताम परमेश्वरीं भगवतीं बुद्धिप्रदां शारदां
Dòng sông Sarasvati là một trong các sông nữ thần ở Rigveda. Tên Sanskrit nghĩa là "có nhiều hồ bơi".
Một dòng sông huyền thoại Saraswati . Được mô tả trong Saraswati có Annwati và Udkwati. Con sông được luôn đầy nước và phong phú các hạt phù sa . Nói nó đến từ các sông ở Punjab, Ambala và Kurukshetra Sirmur vùng núi của Ấn Độ đã được nhập vào sông Sirsa Karnal ở bang Patiala Drisdwati (Kangar) . Trong thời cổ đại, nước sông tưới cho nhiều địa điểm trong Rajputana. Theo thời gian, nó đã biến mất khỏi tất cả những nơi này, nhưng người ta vẫn luôn tâm tưởng trong ý niệm rằng Prayag: salila đi. Mnusnhita rõ ràng là đất giữa Brahmavarta gọi là Muse và Drisdwati.

Những người Hindu hành hương đến các thành phố thánh của Varanasi, nơi các nghi lễ tôn giáo thường được cử hành; Haridwar được tôn sùng vì nó là nơi sông Hằng rời dãy Himalaya; còn Allahabad, nơi dòng sông Saraswati huyền thoại được người ta tin là chảy vào sông Hằng. Cứ 12 năm, một lễ hội Purna Kumbha (Vạc Đầy) được tổ chức ở Haridwar và Allahabad mà trong các lễ hội này hàng triệu người đến để tắm trong sông Hằng. Những người hành hương cũng đến các địa điểm linh thiêng khác gần các thượng nguồn sông Hằng, bao gồm đền thờ dưới núi băng Gangotri.
Chính vì những điều đó, nên tâm nguyện lớn nhất của người Ấn là trong đời người ít nhất được một lần đến tắm tại sông Hằng và khi chết được mang xác về Varanasi, thành phố bên bờ sông Hằng để làm lễ hỏa thiêu rồi thả tro xuống dòng sông ngay tại nơi này. Varanasi mà ngày xưa người Trung Quốc và người Việt Nam gọi là Tha La Nại nằm cách xa New Delhi về phía đông khoảng 500 km và là thành phố cổ có tuổi đời chừng 3.000 năm.
Varanasi ngày nay vẫn còn nguyên khu thành cổ do một vị tiểu vương xây dựng cách đây hàng ngàn năm. Khu thành cổ này nằm dọc bờ tây sông Hằng cùng với một số đền thờ Hindu tạo nên một quần thể kiến trúc độc đáo mang tính cách linh thiêng đối với người theo đạo Hindu. Phải chăng vì lẽ đó mà dù sông Hằng là con sông dài nhất Ấn Độ, chảy qua nhiều vùng lãnh thổ của đất nước này nhưng người Hindu vẫn chỉ muốn về đây tắm hoặc làm lễ hỏa táng rồi thả tro xuống dòng sông mẹ huyền bí ?. Vào ngày lễ, hai bên bờ sông Hằng ở Varanasi không còn chỗ chen chân.
Dự kiến hơn 100 triệu người Hindu giáo sẽ tham dự Maha Kumbh Mela. Người hành hương Hindu đổ xô đến hợp lưu của 3 dòng sông Hằng, Yamuna và Saraswati để tắm rửa và gột sạch tội lỗi của mình để được ơn cứu độ. Mười triệu người hành hương được cho là đã tắm trong dòng sông vào ngày đầu tiên, với toàn bộ sự kiện kéo dài 55 ngày. Cứ 12 năm, lễ hội Kumbh Mela diễn ra ở một nơi, nhưng lễ hội năm nay là Maha Kumbh Mela chỉ xảy ra mỗi 144 năm và được xác định dựa trên lịch chiêm tinh.
Người Hindu tắm trong hợp lưu của 3 dòng sông để rửa sạch tội lỗi.
Xin theo dõi tiếp bài 7 .dienbatn.
Xem chi tiết…

Comment