cac-tong-phai-dao-giao-cua-trung-quoc-bai-
CÁC TÔNG PHÁI ĐẠO GIÁO CỦA TRUNG QUỐC. BÀI 2.
- bởi tamthuc --
- 22/09/2011
CÁC TÔNG PHÁI ĐẠO GIÁO CỦA TRUNG QUỐC.
1/ MỘT SỐ HIỂU BIẾT VỀ PHÁP THUẬT MAO SƠN TÔNG.
( các tài liệu dienbatn sưu tầm)
( các tài liệu dienbatn sưu tầm)
Theo vi.wikipedia.org : Mao Sơn Tông là tên một giáo phái của Đạo giáo, lấy Mao Sơn (núi cỏ mao), nằm ở giữa hai huyện Kim Đàn và Cú Dung của tỉnh Giang Tô, Trung Quốc, làm tổ đình. Mao Sơn có tên xưa là Cú Khúc Sơn, Địa Phế Sơn, Cương Sơn, Kỷ Sơn. Đây là ngọn núi thuộc hàng động thiên phúc địa nổi tiếng. Mao Sơn Tông kế thừa Thượng Thanh Phái. Đào Hoằng Cảnh là tổ sư đời thứ 9 của Thượng Thanh Phái (không chú trọng phù lục). Sau khi quy ẩn 10 năm tại Mao Sơn, ông sáng lập Mao Sơn Tông (coi trọng phù lục), lấy tên núi làm tên giáo phái.
Mao Sơn đến với uy danh đệ nhất khưu tà trừ ma và còn lập đàn, bố trận pháp. Mao Sơn phái có các đời tông sư rất nổi tiếng, qua nhiều thời, sáng tạo ra những pháp thuật xuất chúng, có ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa đạo giáo Trung Hoa.Là một môn phái lớn trong tám đại huyền thuật của Trung Quốc với những pháp như: Hành thông linh pháp(đi xuyên thấu tam giới),Luyện cương thi( luyện xác chết thành thi biến nhằm mục đích đưa về quê an táng)...Ngoài những pháp thuật kể trên Mao Sơn cón có những trận pháp vô cùng huyền diệu như: Cửu đăng liên hoa trận, cửu tiền bôi đỉnh trận,bát quái trận,...Cho đến nay Mao Sơn không cón phát triển rộng rãi như ngày xưa, do quá trình hiện đại hóa của xã hôi, nhưng vẫn còn những người biết và tìm đến học đạo thuật Mao Sơn, có lẽ Mao Sơn đạo phái sẽ không bị thất truyền trong tương lai mai sau.
Mao Sơn Huyền Thuật vốn là một trong tám đại Huyền Thuật của Trung Hoa có nguồn gốc từ rất lâu Đời.Mao Sơn Huyền Thuật cũng như các Đạo Giáo khác trên Thế giới được phân theo hai nhánh là Chính Giáo và Ngoại Giáo.
Theo một tài liệu khác :
" Khái Niệm Mao Sơn Huyền Thuật:
Mao Sơn Huyền Thuật xuất phát từ Đạo Môn của Trung Hoa nghĩa là họ thuộc Tiên Đạo và thờ Nguyên Thủy Thiên Tôn và Thái Thượng Lão Quân được xem là Tổ Sư của Đạo Mao Sơn.
Lúc đầu một số người lầm tưởng Mao Sơn Huyền Thuật là của họ Mao nhưng xét về lịch sử thì người sáng lập ra Mao Sơn lại là Lã Nhất Thí vốn sống ở nước Thục.
Lúc đầu Mao Sơn Thuật chỉ dùng để xem Phong Thủy và Trừ Tà sau hơn 200 đời truyền lại thì đến đời nhà Hán Mao Sơn Huyền Thuật lại được bổ xung thêm Thuật Âm Dương và Thuật Ngũ Hành.
Đến đời nhà Đường thì Mao Sơn Thuật lại được bổ xung thêm Thuật Bát Quái tuy nhiên công dụng thì không còn gò bó như lúc đầu mà Thuật Mao Sơn bây giờ đã có thể gọi như thuật Thần Thông.
Người học Mao Sơn Thuật khi bắt đầu học phải chấp nhận xem số phận của mình có rơi vào : Nhất Bần Nhị Yểu Tam Vô Tự ( thứ nhất nghèo khổ ,thứ hai là yểu mạng và thứ ba là không con cái).Mỗi vị pháp sư của đạo Mao Sơn chỉ học được một Pháp trong số Ngũ Hành,Âm Dương Hoặc Bát Quái.
Mao Sơn Phái vốn là một Đạo Giáo thiên về việc lập đàn và bố trận là chính vì nó có sự ảnh hưởng của binh pháp.Mao Sơn không sử dụng các pháp ấn mà đa số sử dụng Linh Phù là chính.
Mỗi Pháp có mỗi cách vẽ phù khác nhau nhưng cách vẽ phù của Mao Sơn có nhiều điểm chung:
1/Người vẽ phù phải tắm rửa sạch sẽ trước khi khai đàn vẽ phù.
2/Phù phải được vẽ vào đúng giờ đúng khắc.
3/Khi vẽ phù thì người vẽ phải không bị làm phiền
4/Người vẽ phù phải nín hơi vẽ một hơi cho hết phù.
Vào đời nhà Tống thì Mao Sơn Thuật đã xuất hiện nhánh rẽ đó là Ngoại Giáo.Tuy thuộc dòng Mao Sơn nhưng Đạo này ngoài thờ Nguyên Thủy Thiên Tôn Và Thái Thượng Lão Quân còn thờ Thái Ất Chân Nhân và Tứ Đại Thiên Vương.Họ chỉ chuyên bố trận và lập đàn chứ rất hạn chế việc dùng Phù.Họ có những câu chú mà Chính Giáo không có và Quy lực trân pháp của họ rất lớn nhưng Linh Phù của họ thì không có quy lực bằng Chính Giáo.
Theo bản dịch của Tantric :
"Mao Sơn Phái là 1 trong 4 phái lớn của Đạo Giáo Trung Hoa, phái này có những pháp rất nổi tiếng như Ngũ Quỷ Vận Tài, Cải Vận Bí Pháp,và đặc biệt là pháp luyện Cương Thi mà chúng ta đã từng được biết đến qua những sách vở và phim ảnh của Hương Cảng, Ngũ Quỷ Bí Pháp là căn bản của rất nhiều pháp luyện Ngũ Quỷ của Mao Sơn, người luyện Ngũ Quỷ Bí Pháp có thể thâu hồn của Ngũ Quỷ để sai khiến và dùng Ngũ Quỷ để giúp đỡ trong những lúc tác pháp luyện phép, cuối thời Thanh triều đất nước Trung Hoa loạn lạc, 10 nước phương tây tranh nhau xâu xé đất nước Trung Hoa ra làm nhiều mảnh, các quan lại và các địa chủ phong kiến của Trung Hoa khi chết ở xa quê hương đều rất muốn được đem thi thể của mình về chôn cất và an táng tại cố hương, bởi theo quan niệm truyền thống và phong thủy nên gia đình những người chết muốn đem thi thể cha, anh họ về an táng tại khu mộ táng của gia tộc. Nếu vận chuyển theo cách thông thường thì không thể được vì đất nước Trung Hoa quá rộng lớn từ nơi mất vận chuyển về tới quê hương thì thi thể sẽ bị hỏng, cho nên gia đình người quá cố mới nhờ vả các đạo sĩ của Mao Sơn phái dùng pháp luyện Thi Biến để lưu giữ thi thể. Các pháp sư khi đó sẽ dùng Ngũ Quỷ hoặc 1 hồn quỷ nào đó nhập vào thi thể của người chết để tạo ra Thi Biến, sau đó sẽ dẫn Thi Biến về cố hương bằng cách vận chuyển xe ngựa hoặc đi bộ, khi về tới quê nhà pháp sư sẽ chọn ngày tẩm liệm và làm lễ giải để quỷ hồn thoát ra khỏi xác. Nhưng pháp nào cũng có mặt trái của nó bình thường Thi Biến chỉ có thể lưu lại 49 ngày trên dương gian, vì đó là thời hạn mà linh hồn kẻ chết bị lưu trong ngục chờ tra xét của Diêm Vương nếu quá thời hạn đó thì Thi Biến sẽ trở thành Cương Thi rất khó mà kiểm soát nổi, những pháp sư cao tay có thể kéo dài thời hạn ra thêm nhưng cũng không được phép quá 100 ngày, ngoài ra Thi Biến khi vận chuyển trên đường chỉ được phép đi vào giờ Tý đến giờ Dần ngoài các giờ đó ra thì pháp sư phải cất thi biến vào nhà và làm lễ cột Thi Biến lại, Thi biến còn phải tránh đi vào những ngày trăng tròn kị nhất là gặp Nguyệt Thực cho nên các pháp sư thường tính toán rất kĩ về thời gian vận chuyển cho thân chủ nếu cảm thấy không kham nổi họ sẽ không nhận lời, khi Thi Biến bị trở thành Cương Thi thì nó sẽ thường hay trốn trong các hang núi và sẽ lên đỉnh núi để đón trăng rằm vì các nơi đó nặng về âm khí, Cương Thi càng để lâu càng khó quy phục vì nó đã có rất nhiều âm khí và oán khí tạo thành, về mặt lý thuyết khi Cương Thi đi tới đâu thì các năng lượng xấu ở nơi đó sẽ hút vào nên càng lâu ngày càng nguy hiểm.Dưới đây là bí pháp luyện Ngũ Quỷ của Mao Sơn phái, người tác pháp nên cẩn thận xem xét chớ dùng phép thuật này vào những điều bất thiện, khi đó sẽ bị tổ trách phạt, bí pháp này tuyệt đối không được truyền thụ cho kẻ kém đức phúc mỏng vì những kẻ đó nếu luyện sẽ bị Ngũ Quỷ khắc hại cho đến thân tàn ma dại, pháp này đã được Lã tổ truyền thụ lại kẻ nào dùng pháp này để kiếm lợi về mình sớm muộn cũng sẽ bị sự trừng phạt.( Tantric dịch thuật trích dẫn từ bộ Mao Sơn Bí Pháp Cấm Thư quyển Trung) .
Thâu Ngũ Quỷ Pháp
Bài Tổng Pháp
Đệ tử luyện phép này phải tu học các pháp hộ thân cho thật rành rẽ, sau đó là phải nắm rõ các ấn Quyết của đạo giáo như Kiếm Quyết, Lôi Ấn,Bắc Đẩu Ấn, kế đó là phải lập đàn Lục Đinh Lục Giáp cho thật tốt, nếu chưa có hoặc chưa lập được đàn Lục Đinh Lục Giáp hay là đàn thỉnh tiên nào thì chưa thể tác pháp này được. Đệ tử luyện phép phải kiếm cho đủ 5 cái đầu lâu của người chết, nam nữ đều được, nếu là nữ thời kiếm được trinh nữ, hoặc giả đầu lâu người bị sét đánh thì càng tốt, chọn ngày Ngũ Quỷ thì ghi chép lại tên của 5 cái đầu lâu đó ra 1 lá bùa gọi là Ngũ Quỷ Danh Phù. Sau đó chọn ngày Quý,cứ mỗi một ngày Quý thì đem đốt 1 cái đầu lâu thành tro, rồi dùng Ngũ Danh Phù bọc tro cốt đó lại, sọ của ai thì bọc Ngũ Danh Phù ghi tên của kẻ đó, bọc xong tro cốt của đầu lâu thì đem đầu lâu đó đặt dưới đàn Lục Giáp để tế luyện, đàn Lục Giáp phải đặt ở 1 nơi thanh tịnh vắng vẻ hoặc giả đặt trong tịnh thất, tuyệt đối kiêng kị không để cho ai biết mình làm gì, gà chó, lục súc, cùng đàn bà, phụ nữ có mang, và người có tang không được lại gần hay ngó vào đàn.
*** Khi vẽ Ngũ Danh Phù, bắt buộc phải vẽ đến phù nào phải hô tên gọi của phù đó.
Đệ tử làm phép dùng tay viết trên sàn hai chữ ( Khôi ) ( Cương ) dùng chân trái đạp lên chữ khôi, chân phải đạp lên chữ cương, tay trái bắt Lôi Ấn, tay phải bắt Kiếm Quyết, đứng định tâm hít 5 hơi chân khí ở 5 phương, niệm bài Hỗn Thiên Chú 7 lần, sau đó đốt Cửu Linh Phù và đốt Ngũ Danh Phù , sau đó hàng ngày đều dâng cúng cho Ngũ Quỷ cơm, canh, bánh, hoa quả, và đốt tiền bạc giấy mã cho Ngũ Quỷ. Làm vậy cho đến 49 ngày khi đó Ngũ Quỷ đã có đủ chân linh khí thì đệ tử làm phép bắt đầu làm 1 bài văn tế Ngũ Quỷ trong đó ghi rõ tên tuổi, địa chỉ, pháp danh của đệ tử tác pháp vào bài văn tế và cũng ghi rõ lý do cần sở cầu Ngũ Quỷ làm điều gì cho mình.
Nghi Thức Tuyên Thệ Của Ngũ Quỷ
Đệ tử làm phép đến ngày thứ 49 thì bắt đầu làm 1 đạo văn tế Ngũ quỷ, rồi sau đó đốt hương đọc văn tế sau đó lấy 5 cái đầu lâu đã bọc bùa dưới đàn Lục Giáp ra và để trước mặt vẽ Sắc Ngũ Quỷ Phù và đốt nhang, cầm cho ngay ngắn là lá Sắc Ngũ Quỷ Phù đó và niệm Chân Ngôn Chú, rồi sau đó dùng Giác Ấn đóng lên lá Sắc Ngũ Quỷ Phù 5 cái. Sau đó lại đốt hương và đốt tiếp 1 đạo Cửu Linh Phù sau đó đốt tiếp đến Ngũ Quỷ Danh Phù.
Khi đốt lá bùa Ngũ Quỷ Danh Phù thì đốt đến lá bùa nào thì phải hô tên của con Quỷ đó như sau: ..........( tên con quỷ ) tốc lai, tốc chí, hữu sự khu dụng, làm như vậy liên tục, đốt 5 đạo bùa hô tên 5 lần.
Sau khi hô tên Quỷ như trên thì sẽ lần lượt các con Quỷ sẽ hiện hình, lúc đó đệ tử tác pháp liền cho chúng đứng ngang trước mặt rồi dùng tay cầm Giác Ấn đóng vào hướng từng con quỷ, mỗi khi đóng vào 1 con Quỷ thì đệ tử phải bắt nó tuyên thệ rằng :
Sẽ mãi vâng lệnh của đệ tử tác pháp, khi đệ tử tác pháp có điều gì cần sai khiến chỉ việc hô 1 câu thời Ngũ Quỷ phải lập tức có mặt, nếu có nghe thấy điều gì thì phải báo lại cho ta, mắt có thấy gì thì lưu tâm lại, nếu biết trước chuyện gì dù là họa hay phúc cũng phải báo cho ta biết, luôn luôn túc trực ở 2 bên và theo ta. Khi Ngũ Quỷ đã tuyên thệ xong rồi thời ta sẽ sử dụng chúng, hàng ngày phải cúng lễ cho Ngũ Quỷ nếu có ăn bất cứ thứ gì thì nên cúng tế cho Ngũ Quỷ ăn trước hàng ngày phải niệm Biến Thực Chú cho Ngũ Quỷ.
Nếu đệ tử đi xa thì Ngũ Quỷ sẽ đi theo, nếu muốn có kẻ khiêng kiệu gỗ thì chọn 1 cái kiệu gỗ sau đó vào giờ Tý đến giờ Mão có thể gõ vào thanh đòn kiệu và bảo Ngũ Quỷ khiêng đi, nhưng tuyệt đối không dùng pháp này ngoài những giờ nêu trên, hoặc giả đi về nơi xa gặp các tửu điếm hoặc quán trọ nếu sợ đạo tặc có thể bảo Ngũ Quỷ canh giữ vậy thì không ai có thể lại gần được, nhưng tránh đi vào đền miếu hoặc ngủ trong miếu thổ thần. Không nên sai Ngũ Quỷ làm quá nhiều việc và nên thương yêu Ngũ Quỷ như chính thân mình vậy, hàng tháng nên đọc chú siêu sinh cho Ngũ Quỷ, đó chính là tâm của kẻ học đạo vậy, khi truyền thụ pháp này cho bất cứ kẻ nào nên bắt thề độc không dùng Ngũ Quỷ vào những việc bất lương, pháp này nên giữ kín tránh việc khoe khoang với người khác nhằm tránh việc mưu hại Ngũ Quỷ, thời dùng phép này mọi việc đều toại ý nguyện không gì là không được, chi bất chi.
*** Đoạn cuối hơi khó hiểu có lẽ Tổ sư muốn dạy rằng không nên khoe khoang với người khác là mình có Ngũ Quỷ theo hầu, để tránh việc kẻ ghen ghét dùng pháp thuật hại Ngũ Quỷ, đúng là Tổ sư có lòng nhân đạo của bậc thánh nhân, người đời sau nên lấy đó làm gương học.
Phần Chú Ngữ Và Linh Phù Ngũ Quỷ
Bài Chú Hỗn Thiên ( niệm 7 lần )
Tinh linh tinh linh, bất tri tính danh, thụ nhĩ ngũ quỷ, đáo ngô đàn đình, thuận ngô giả cát, nghịch ngô giả hung, phụ ngô liễu đạo, khung ngô thành chân, lệnh nhĩ ban vận, tức tốc tựu hành, nghịch ngô lệnh giả, thốn trảm khôi trần, ngô phụng thái thượng lão quân cấp cấp như luật lệnh.
Bài Niệm Chân Ngôn
Nam Vô Vị Phủ Tuân Cát Lợi, Tuân cát Lợi, ( hít 1 hơi niệm 7 lần )
Bài Chú Thực Chân Ngôn ( dùng để tế lễ cho Ngũ Quỷ ) Tam giới vô lượng thực, xung mãn pháp giới trung, tế nhữ cơ khát giả, thanh sắc vô sắc thanh.( niệm xong liền đọc Khai Yết Hầu Chú )
Bi phu thường thang khổ, phiền não tam đô trung, mãnh hỏa siêu yết hầu, thường tư cơ khát, niệm nhất khí cam lộ thủy, như nhiệt phụ thanh lương, cảnh tình lạc xứ, thác hóa tiêu diêu hương, ngô kim thi nhĩ cung, ích như tiên cảnh chúng, nhất lập biên thập vạn hà sa, quỷ thần cung, ngô phụng ức ức kiếp trung độ nhân, vô lượng tâm thanh của thái ất cứu khổ đại thiên tôn thanh huyền thượng đế luật lệnh nhiếp.
Cách Làm Giác Ấn.
Ấn này sách gốc không ghi cách làm nay tôi xin lấy cách làm Giác Ấn này từ pháp Dương Độn Bạch Hạc Tử Chi.
Hình Thức Ngũ Quỷ Danh Phù Và Cửu Linh Phù
Cửu Linh Phù
Ngũ quỷ danh phù.
Hình Minh Họa
Ví dụ kẻ chết tên Hạ Thái thì ghi tên Hạ Thái vào trong khuyên bùa.Ngũ Quỷ Danh Phù là 5 đạo bùa ở trên chỉ khác nhau ở chỗ tên của Quỷ thì ghi vào nơi có dấu ở trong lòng bùa, còn hình bên cạnh là hình minh họa của Ngũ Quỷ Danh Phù, ấn Giác sẽ đóng vào nơi có khoanh tròn.
Mao Sơn Thi Biến Chi Thuật
Lời Tựa Về Pháp
Người luyện pháp này phải có tâm tu hành, không được tham tài vật mà làm càn, pháp này cũng tuyệt đối phải giữ kín không được truyền thụ bừa bãi cho những kẻ hạ đẳng, kẻ hạ đẳng không có phước được truyền thụ sách này. Kẻ hạ đẳng sẽ dùng pháp này vào những việc bất thiện gây hại cho lương dân và bá tánh.
Người tác pháp phải chuẩn bị 2 lá phù Sắc Lệnh, 1 lá để trói buộc Thi Biến, 1 lá Sắc để tránh quan diệt quỷ đường khi lưu dẫn Thi Biến, Ấn Sắc lệnh thì để ở trong 1 cái túi hoa thêu gấm và luôn đeo ở vai trái. Khi có người vừa chết, trong vòng 2 canh giờ người làm phép phải lấy 3 đồng tiền Long Phụng cho vào mồm người chết, lấy chỉ ngũ sắc cốt vào tay trái kẻ đó, thời sau đó lập đàn triệu Ngũ Quỷ lên sai bảo, trước tiên phải làm lễ An Thổ Địa tại nơi đó. Chọn lấy 3 trương giấy thật tốt, Long Xa, Phượng Liễn gồm 3 bộ, 3 tập tiền Bảo Tràng, 3 tập tiền Cờ Lệnh, rồi sau đó đọc An Thổ Địa Chân Ngôn.Đọc xong liền niệm Triệu Thổ Địa Thần. Khi Thổ Địa Thần thị hiện liền nói rõ việc mình chuẩn bị làm để tránh việc Thổ Thần làm khó, sau đó tay trái kết lôi quyết, tay phải kết Kiếm Quyết, chân đạp 2 chữ KHÔI và CƯƠNG, liền sau đó dùng kiếm quyết thư Sắc Lệnh Phù lên trên trời và mồm niệm bài Truy Hồn Chú, niệm xong đọc to tên của Ngũ Quỷ và ra lệnh cho Ngũ Quỷ nhập vào thi thể người chết, khi nhập rồi thời phải niệm liên tiếp bài Truy Hồn Chú cho đến khi cái xác đó bắt đầu cử động và đứng lên được, sau đó lập tức thư Bùa Sắc Lệnh vào 1 trang giấy lớn, vẽ liên tục Sắc Lệnh này cho đến khi kín tờ giấy này, ( theo người dịch lá bùa này to như cái chiếu ) dùng Sắc Lệnh này cuốn quanh người Thi Biến để giữ lại, sau đó niệm chú Giữ Chân, ( rất tiếc bài chú này hiện nay không được chép đầy đủ điều này cũng phải hết sức lưu ý ).
Người tác pháp khi muốn vận chuyển thi biến đi thời phải chọn lấy 1 cái chuông, chuông này phải dùng tên người chết vẽ lên đó, mỗi khi lắc chuông miệng phải đọc bài Vận Chuyển Chú, và chỉ được dẫn Thi biến đi từ giờ Tý đến giờ Mão, khi đi tay trái lắc chuông tay phải tung tiền giấy vàng mã, miệng niệm chú Vận Chuyển, người tác pháp phải nên chọn những ngày trăng non để di chuyển tránh những ngày trăng tròn và ngày nhuần âm, trong vòng 7 tuần phải thâu gọi Ngũ Quỷ lại để tránh việc Thi Biến
Ma quỷ dọc đường thường hay đeo bám theo, thời có thể dùng Thí Thực chú để ban phát thức ăn cho chúng, dùng Ngũ Cốc để thí thực cho chúng,khi đến nơi cần thâu Ngũ Quỷ lại chỉ việc làm phép thu gọi Ngũ Quỷ lại,sau đó chọn lấy 1 cây kim sắt dài khoảng 2 tấc chọn giữa đỉnh đầu Thi Biến mà cắm vào, lại dùng 13 cái kim khâu cắm tiếp vào Quỷ Huyệt của Thi Biến, làm các lễ xong thì mới có thể hạ huyệt.
*** Đoạn sách trên bị mất 1 vài đoạn vì quá mờ khó có thể dịch được, cộng thêm pháp này chủ yếu dành cho các pháp sư cao tay nên cách viết về nghi thức quá vắn tắt khó hiểu, người tác pháp nên nghiên cứu kĩ lưỡng trước khi tác pháp này, hoặc có thể tham khảo thêm về pháp này qua 2 bộ sách của Mao Sơn, ( Mao Sơn Cấm Thư ) ( Thâu Hồn Bí Pháp ) và 1 số tài liệu nói về thuật luyện Thi Biến của Đạo Sĩ gồm có Đạo Gia Bí Pháp Toàn Thư quyển số 2, Đạo Gia Đàn Pháp Hợp Biên ( sách in tại Đài Loan năm 1989 và 1992 )
*** Thập Tam Quỷ Huyệt là 13 huyệt trên cơ thể con người, hiện nay tài liệu này ở nước ta ( VN ) hầu như không có, người đọc có thể nghiên cứu qua các huyệt nay tại sách Mao Sơn Phù Chú Chế Sát Bí Cấp.
*** Tiền Long Phụng là loại tiền có 1 cái lỗ ở giữa vòng quanh có con rồng và phượng cuốn quanh, theo người dịch tiền này giống như tiền âm dương ở ta.
*** Những lá bùa trên tất cả đều phải dùng giấy vàng và châu sa đỏ để vẽ, theo người dịch hiểu thì tất cả phù này đều phải vẽ trước khi vào đàn tế luyện, và đóng ấn lên bùa, nguyên tắc đóng ấn gồm có, Ấn Thái Thượng Lão Quân đóng lên chỗ có chữ Sắc ở tại đầu lá bùa, Ấn Sắc Lệnh đóng vào giữa bùa, và Ấn Bản Mệnh đóng vào đuôi bùa.
*** Linh phù trên theo như người dịch nghiên cứu là dùng kê huyết để vẽ lên với mục đích là trấn yểm tránh cho việc xác chết thành Quỷ ngoài sự mong muốn của pháp sư.
Phần Chú Ngữ Của Pháp
Triệu Thổ Địa Thần ChúCẩn thỉnh thử giản thổ địa, tư tế thụ ba, thủy hỏa môn vãng lai, đại lộ tùy ngã tẩu, bất hứu thâu lậu ngã hành tung, ngô phụng thái thượng lão quân cấp cấp như luật lệnh, sắc.
( niệm xong dùng chân trái dậm xuống đất 3 lần tay trái bắt lôi ấn tay phải bắt Kiếm Quyết )
Sau 1 lát thổ địa sẽ xuất hiện khi đó tùy nghi mà trình tấu về việc mình sắp làm.
Bài Truy Hồn Chú
Quỷ thân, quỷ thân, quỷ kiến, quỷ vân, ngô kim sắc lênh, khế kim bất nhã, nhập thân, nhập thể, cận báo họa hại, viên báo hành nhân, vĩnh bất siêu thân, ngô phụng thái thượng lão quân cấp cấp như luật lệnh nhiếp.
Vận Chuyển Chú ( niệm khi lắc chuông lưu dẫn Thi Biến )
Tả chuyển càn khôn động, hữu chuyển nhật nguyên minh, thiết tả hoàng thiên hóa, nhứt điểm quỷ thần kinh, ngô phụng thái thượng lão quân cấp cấp như luật lệnh sắc.
Nguyệt Thiềm Khởi Tử Pháp
Nguyệt thiềm giống như con ếch lại có tên là Lão Cáp, lớn bằng cái chén ăn cơm, dưới bụng có sắc vàng óng ánh, bắt nó vào 3 tháng xuân, đem về buộc nó vào chiếc giầy, sau đó treo ngược lên xà nhà, giữ kĩ không cho các loài côn trùng khác làm nó hỏng và tổn thương, đợi vào những tháng 7 hoặc tháng 8 nhằm lúc nguyệt thực đem nó ra sử dụng, để nó vào trong 1 chậu nước ấm và lấy 1 chậu nước lớn khác úp lên trên đó. Đợi khi nguyệt thực bắt đầu lấy 1 chiếc gậy tre gõ lên trên, không được dùng tay, đợi khi trăng sắp tròn mở chậu ra mà xem, thì sẽ thấy con Nguyệt Thiềm đó sống lại, nó có thể chạy nhảy như bình thường, lúc đó sẽ lấy con Nguyệt Thiềm và 1 lạng chu sa cho vào 1 cái cối nhỏ đem giã nát nhuyễn ra, sau đó lấy ra làm thành viên hoàn nhỏ như hột gạo, làm 1 viên cứu được 1 người, làm khoảng 100 viên. Khi có người mới tắt thở khoảng 5 đến 6 giờ thì có thể cứu được lúc đó lấy nước nóng tắm rửa cho tử thi rồi nhét viên hoàn đó vào miệng thời kẻ đó sẽ hấp được tiên khí mà sống lại.
*Theo một tài liệu khác :
Trong mao sơn thuật , có quyển sách " thông y phù dược pháp " trong sách này ghi lại toàn bộ pháp yếu trị bá bệnh của mao sơn phái , đơn giản dễ sử dụng , bùa chú trị bệnh này đa số dùng cá mật tự , và phù thức để làm lệnh cho thân bùa , tâm lệnh của bùa đc thư hoạ phù đảm vào rất là nhiều , trong lá bùa thì đa số dùng thần y khí lực quán của Quán Huyền đạo nhân , đạo nhân sinh vào năm 1100 mất năm 1189 đạo nhân là trưởng y phòng của mao sơn tông , trong suốt cuộc đời đạo nhân ngài đã dùng y dược và phù thuật lập thành chương sách thông y phù dược pháp này , đây là tâm huyết cả đời đạo nhân , hàng hậu học nay đc duyên lành tới, dịch thuật viên mãn , nay xin công bố cùng chư vị về tập sách này , do k thuận tiện dùng vi tính , nên sẽ đc viết trực tiếp trên đây .
*trị thổ tả , đau đầu ,đau ko rõ nguyên do , thổ tả hoài ko dứt , dùng 1 ít bã trà , đốt bùa này hoà với bã đó , rồi lại đem pha 1 lần nước mà uống , 3 lá 1 ngày tức ngay khỏi bệnh:
phụ nữ kinh nguyệt - bệnh đàn bà đều dùng
trị nghiện
các thứ nghiện , ví như nghiện thuốc lá lâu năm ,hút lâu thành bệnh , sinh hư lá phổi , cần uống bùa này kèm các vị lá sau :lá bạch đàn , lá hồng mẫu tử , lá mẫu đơn , lá dâu tằm , mỗi thứ 5 lá thành 1 thang sắc cùng bùa này uống.
trị mất ngủ
mất ngủ lâu ngày ko trị thì nguy , dùng các loại cỏ thơm , như ngải giao ( cỏ ) , tùng diệp ( cỏ ) , mộc hương ( cỏ ) , hoa cúc ,vỏ đàn hương ....cho vào gối ngũ kèm bùa này.
nam nhân yếu
nam nhân yếu trị lý giả thức thời , thì dùng bùa này ko đốt ko uống , mỗi ngày cho bùa vào miệng ngậm tức có biến chuyển ( bùa phải đc bọc nhựa tránh làm ướt ).
ăn uống khó khăn
khó ăn biếng uống dùng bùa này dán vào táo thần niệm chú :
táo quân tư mệnh , ngọc hoàng giáng chỉ , hộ nhân hộ gia, môn gia hưng vượng , già trẻ quý thực , lương thảo đầy kho , hồng hồng cấp cấp như luật lệnh sắc !!!
trị đau đầu - đau tim ( hoản sơ mà sinh ) dùng bùa này 1 đốt 2 uống , tức tâm thần an định
Đây cũng là một tài liệu sưu tầm.
Triệu hồn đại pháp ( mao sơn )
- Đề tài mà mọi người hay chú ý nhất là thế giới vô hình , 1 trong những cái khó lý giải hay lý giải ko đc qua con mắt bình thường , việc này cần sự trãi nghiệm thực tế , cần 1 sự logic về vấn đề này để lý giải hết tất cả , ngay cả những người thực hành về vấn đề này đều không thể lý giải hết mọi sự hiện hữu trong cuộc . Nay tôi xin giới thiệu 1 pháp môn của Mao sơn tông đạo thuật , đó chính là phép trục hồn lên hỏi chuyện còn gọi là triệu hồn pháp .
Vì pháp môn này tuy viết bô la bô lô 1 vài dòng thì thấy dễ , chứ thực tế mà nói thì ngay cả công năng tu tập của 1 vị đạo sĩ không đủ khả năng thì không thể triệu lên hoặc triệu lên rồi thì sẽ có hậu quả phía sau , bài viết trên đây chỉ mang tính giới thiệu không khuyến khích các bạn làm theo , nếu ai thấy mình có khả năng thì cứ làm theo , tại đây không chịu trách nhiệm về hậu quả các bạn đã làm .- Khi một vong hồn ( âm linh ) của 1 người đã mất trong vòng 49 ngày đầu sẽ chưa đi đầu thai , hoặc ở tại các ty sở để biện luận xét tội , hoặc vất vưởn trên cõi trung giới ( u minh ) , trong ngày thứ 7 kể từ ngày mất tức tuần thứ 1 người nhà của họ sẽ thắp 1 đôi nến trắng ( bạch lạp ) rồi kêu tên tuổi của họ để họ về nhà , chính từ lúc này họ mới biết họ đã ko còn trên dương thế , theo thực nghiệm quan sát nhà 1 người thân thì họ làm như thế này : - trên linh sàn họ để 1 căn nhà = giấy có đầy đủ tiện nghi :
-bốn góc linh sàn để 4 hình nhân bằng giấy ( người hầu ) thường thì để 2 trai 2 gái , ngày thứ 7 của tuần đầu tiên họ thắp 1 đôi bạch lạp ( đèn cầy trắng ) lớn rồi 3 cây nhang bự cỡ ngón chân cái rồi cùng 2 cái vung thường thì tôi thấy các thầy đạo sĩ cúng hay dùng cái CHẬP Cheng hay cái ĐẨU mà gõ . Kế thì để 1 cành tre nhỏ cột lá triệu nhỏ lên : trên lá Triệu viết là : Sắc Lệnh Tam Hồn Thất phách ( hay cửu phách ) tiếp triệu hỏa tốc hồi gia tang cấp cấp như luật lệnh . 2 bên lá triệu dán kèm 2 cái lồng đèn vãn sanh , trên lồng đèn có viết chú vãn sanh , làm tất cả việc trên thì tất cả đi ngủ.
Còn pháp triệu hồn đây có thể dùng bất cứ lúc nào - triệu bất cứ vong nào ....
Sách Thần Tiêu Ngọc Cách Công Văn Là 1 bản sách cổ quý giá trong giới Huyền Thuật, cuốn sách được in vào năm Cảnh Hưng 1763, bản sách này là cuốn bí cấp gối đầu giường của tất cảc pháp sư, thầy cúng, nội dung sách chép về các bài cúng văn, các cấp bậc Pháp Sư, cách đặt tên Pháp Sư, cách kí tên Pháp Hiệu theo ngày tháng, năm, sinh, của Pháp Sư, đặc biệt là các loại Ấn Bản Mệnh của Pháp Sư theo Lục Thập Hoa Giáp ( 60 Tuổi ), Các loại Ấn truyền thừa, vv......... Bản sách này là căn bản của các Pháp Sư họ khi làm các pháp sự đều phải căn cứ vào các điều trong này mà tác pháp, chính vì vậy mà từ lâu cuốn sách đã được các Pháp Sư cất giấu như vật báu gia truyền, hiếm khi được truyền gia ngoài.
dienbatn đã tặng lại các bạn trong thư viện miễn phí.
( xem tiếp tại bài thứ 3- dienbatn)
Comment