phong-thuy-luan-bai-
PHONG THỦY LUẬN . BÀI 27.
- bởi tamthuc --
- 18/09/2013
PHONG THỦY LUẬN .
PHẦN 5 : THIÊN VĂN VÀ CHIÊM TINH ỨNG DỤNG TRONG PHONG THỦY.
II / MỘT SỐ VẤN ĐỀ QUAN TRỌNG TRONG THIÊN VĂN VÀ CHIÊM TINH .
( Tài liệu này dienbatn sưu tầm và tổng hợp nên không ghi nguồn .)
II. NHỊ THẬP BÁT TÚ. ( Tiếp theo ).
Thập Nhị Thứ
Nơi sao Hư thấy đề 9o với chữ tiểu cường tức là hơn 9o.
Cộng các độ với nhau, ta được 365o, lại cộng với một chút «tiểu cường» ta sẽ có 365o ¼ của vòng Chu Thiên.
II. NHỊ THẬP BÁT TÚ. ( Tiếp theo ).
A/ Nhị thập bát tú tính theo ngày dương lịch:
Năm dương lịch có 365 ngày tức 13 chu kỳ của Nhị thập bát tú (28 x 13 = 64) cộng thêm 1 ngày. Nếu năm nhuận (có ngày 29/2) thì cộng thêm 2 ngày - Ngày 1-1-1995 là ngày chủ nhật thuộc sao Hư (số 11) ta dễ dàng tính ra ngày 1-1-1996 là ngày thứ hai thuộc sao Nguy (số 12). Nhưng đến năm 1997 phải tụt xuống 2 sao tức ngày thứ 4 sao Bích (số 14) (vì năm 1996 có thêm ngày 29/2). Chỉ cần biết một mốc chính xác, ta có thể tính ra bất cứ ngày nào trong quá khứ và tương lai theo cách tính trên.Thí dụ tính ngày 8/3/1997 tức thứ 7 là sao số 24 Sao Liễu.
Thí dụ: Ta biết ngày 1.1.1995 là ngày chủ nhật thuộc sao Hư (số 11). Thử quay lại ngày 28.2.1985 là ngày gì?
Bước 1: Tính từ 1985 đến 1995 là 10 năm 13 chu kỳ cộng 1 ngày = 1 năm thường tuột xuống một ngày. Từ năm 1985 đến 1995 có thêm 2 ngày 29/2 (1988, 1992) Từ 1985 đến 1995, hệ sao đã tuột xuống (10 + 2) = 12 sao. Sao Hư ngày 1.1.1995 số 11, vậy ngày 1.1.1985 phải ngược lại 12 sao là sao số 27, sao Dực (ngày thứ 3)
Bước 2: từ 1.1.1985 đến 28.2.1985 có 2 chu kỳ 28=56 và 2 ngày. Ngày 1.1.1985 là sao Dực (27), 28.2.1985 là ngày sao Giác (1) thứ năm (đem từ sao Dực lên 2 ngày).
B/ Xác định sao của năm
Theo chu kỳ thì 28 năm, sao sẽ trở lại như ban đầu, bắt đầu từ nhóm sao ở phương Tây (Bạch Hổ), xuống phương Nam (Chu Tước), lên phương Đông (Thanh long) và phương Bắc (Huyền vũ).
Cách tính
Sau Công nguyên, lấy số năm chia cho 28, nếu số dư bằng 0 thì năm đó do sao Khuê gây ảnh hưởng (số dư chớ không phải số thành), nếu số 1 = sao Lâu, số 2 = sao Vị... (xem bảng số bên dưới).
Bắt đầu từ sao Khuê và theo thứ tự tiếp tục cộng 1. Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm, Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn, Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ, Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích.
Thí dụ
* Tìm sao gây ảnh hưởng cho năm 1990?
Lấy số 1990 chia cho 28, số dư còn lại là 2. So vào bảng số tính năm cho sao thấy số 2 thuộc sao Vị. Vậy sao của năm 1990 là sao Vị (số thành là 71, không tính).
* Tìm sao gây ảnh hưởng cho năm 1996?
Lấy số 1996 chia cho 28, số dư còn lại là 8. So vào bảng số thấy số 8 thuộc sao Quỷ. Vậy sao của năm 1996 là sao Quỷ.
* Tìm sao gây ảnh hưởng cho năm 2006?
Lấy số 2006 chia cho 28, số dư còn lại là 18. So vào bảng số thấy số 18 thuộc sao Đê. Vậy sao của năm 2006 là sao Đê.
C/Xác định sao của tháng
Tháng Giêng của năm sao Giác là sao Tâm. Mỗi tháng sao thay đổi. Chu kỳ của sao là 28. Một năm có 12 tháng, vì vậy chu kỳ của tháng là 12. Bội số chung nhỏ nhất của 28 và 12 là 84. Số 84 = 28 x 3 = 12 x 7. Như vậy theo chu kỳ 7 năm thì tháng Giêng và sao Tâm trùng trở lại. Chỉ cần tìm sao của tháng Giêng mỗi năm để tính các tháng kế tiếp.
Điều cần nhớ trong phương pháp xác định sao của tháng là: Năm tính theo dương lịch, còn tháng tính theo âm lịch.
Cách tính
* Đầu tiên lấy số năm muốn tính chia cho 7 để xem được bao nhiêu lần tháng Giêng (chu kỳ). Lấy số dư (D) nhân với 12 để được số tháng dư (T). Sẽ có hai trường hợp sau:
- Nếu T + 5 > 28 thì lấy T + 5 - 28 = S. S là số sao của tháng Giêng cần tìm.
- Nếu T + 5 < 28 thì chính T + 5 là số sao của tháng Giêng cần tìm vậy.
Chú thích: Dấu > là lớn hơn; dấu < là nhỏ hơn.
* Tính tháng khởi đầu bằng sao Giác của chòm sao Thanh long ở phương Đông, tiếp theo là chòm sao Huyền vũ ở phương Bắc, kế đến là chòm sao Bạch hổ ở phương Tây và cuối cùng là chòm sao Chu tước ở phương Nam trở lại sao Giác như lúc khởi đầu bằng số 1, Cang 2, Đê 3, Phòng 4... Chẩn 28. Thứ tự 28 sao được sắp xếp như sau:
Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ, Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích, Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm, Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn.
* Biết được sao tháng Giêng của năm thì tính các tháng kế tiếp rất dễ dàng theo thứ tự các sao ghi trên.
* Gặp tháng nhuần thì tính như tháng trước. Thí dụ như năm Bính Tuất (2006) là năm nhuần, nên có hai tháng 7. Tháng 7 đầu thuộc sao Đê thì tháng 7 nhuần sau cũng vẫn thuộc sao Đê, tháng 8 mới qua ảnh hưởng của sao Phòng.
Thí dụ
* Tìm sao của tháng Giêng năm 1990?
Lấy số 1990 chia cho 7, số dư còn lại là 2 (D). Lấy số dư 2 x 12 = 24 (T) + 5 = 29 (S). Vì S > 28, nên lấy số 29 - 28 = 1
Vậy sao của tháng Giêng năm 1990 là sao Giác (S = 1).
* Tìm sao của tháng Giêng năm 1996?
Lấy số 1996 chia cho 7, số dư còn lại là 1 (D). Lấy số dư 1 x 12 = 12 (T) + 5 = 17 (S).
Vậy sao của tháng Giêng năm 1996 là sao Vị (S = 17).
* Tìm sao của tháng Giêng năm 2006?
Lấy số 2006 chia cho 7, số dư còn lại là 4 (D). Lấy số dư 4 x 12 = 48 (T) + 5 = 53 (S).
Vì S > 28, nên lấy số 53 - 28 = 25. Theo thứ tự số 25 là sao Tinh
Vậy sao của tháng Giêng năm 2006 là sao Tinh (S = 25).
D/ TỊNH DƯƠNG MỘNG ẢNH.
1/ Tính theo Can.
* Giáp cung độ sao Vĩ cư tại vị trí Dần.
* Ất cung độ sao Đê cư tại vị trí Mão.
* Bính cung độ sao Dực cư tại vị trí Tị .
* Đinh cung độ sao Liễu cư tại vị trí Ngọ.
* Mậu cung độ sao Khuê cư tại vị trí Tuất .
* Kỷ cung độ sao Giốc cư tại vị trí Thìn .
* Canh cung độ sao Chủy cư tại vị trí Thân.
* Tân cung độ sao Vị cư tại vị trí Dậu .
* Nhâm cung độ sao Thất cư tại vị trí Hợi .
* Quý cung độ sao Vĩ cư tại vị trí Tý.
2/ Tính theo Chi.
* Dần cung độ sao Cơ.
* Mão cung độ sao Phòng.
* Thìn cung độ sao Cang.
*Tỵ cung độ sao Chẩn .
* Ngọ cung độ sao Tinh.
* Mùi cung độ sao Quỷ.
* Thân cung độ sao Sâm.
* Dậu cung độ sao Mão.
* Tuất cung độ sao Lâu.
* Hợi cung độ sao Bích.
* Tý cung độ sao Hư.
* Sửu cung độ sao Nguy.
3/ Đường mặt trời vận hành qua các cung.
Theo Thiên văn học phương Đông thì mỗi tháng mặt trời ( Thái dương ) sẽ chuyển vầng Khí ( đi qua ) một cung độ như sau : Vòm trời 360 độ.
* Tiết Vũ thủy , mặt trời chuyển qua cung Hợi sơ độ, khi đó ra khí " Trâu tử ".
* Tiết Xuân phân , mặt trời chuyển qua cung Tuất sơ độ, khi đó ra khí " Giáng lâu ".
* Tiết khí Cốc vũ - Cung Dậu sơ độ - Khí Đại lương.
* Tiết khí Tiểu mãn - Cung Thân sơ độ - Khí Thực trầm.
* Tiết khí Hạ chí - Cung Mùi sơ độ - Khí Thuần thủ.
* Tiết khí Đại thử - Cung Ngọ sơ độ - Khí Thuần hỏa.
* Tiết khí Xử thử - Cung Tị sơ độ - Khí Thuần vĩ.
* Tiết khí Thu phân - Cung Thìn sơ độ - Khí Thọ tinh.
* Tiết khí Sương giáng - Cung mão sơ độ - Khí Đại hỏa.
* Tiết khí Tiểu tuyết - Cung Dần sơ độ - Khí Tích mộc.
* Tiết khí Đông chí - Cung Sửu sơ độ - Khí Tinh kỷ.
* Tiết khí Đại hàn - Cung Tý sơ độ - Khí Huyền hiếu.
4/ Tinh đồ cung vị.
* Tý tướng:
- Đại hàn - Sao Giốc ( 1 độ 28 phút ) - Giờ Dần chính 3 khắc 12 phân ( 1 khắc=15 phút, 1 phút = 1 phân ).
- Lập xuân - Sao Đê - ( 1 độ 43 phút ) -Giờ Mão sơ 3 khắc 5 phân.
* Hợi tướng :
- Vũ thủy - Sao Phòng ( 1 độ 21 phút ) - Giờ Dần chính 3 khắc 7 phân.
- Kinh chập - Sao Tâm ( 1độ 47 phút ) - Giờ Dần chính 2 khắc 9 phân.
* Tuất tướng .
- Xuân phân - Sao Vĩ ( 1 độ 25 phút ) - Giờ Dần chính 1 khắc 10 phân.
- Thanh minh - Sao Vĩ ( 2 độ 37 phút ) - Giờ Dần sơ 1 khắc 10 phân.
* Dậu tướng.
- Cốc vũ - Sao Cơ ( 4 phút 31 độ ) - Giờ Dần sơ 2 khắc 8 phân.
Lập hạ - Sao Cơ ( 3 độ 51 phút ) - Giờ Dần sơ 0 khắc 13 phân.
* Thân tướng.
- Tiểu mãn - Sao Dẩu ( 2 độ 51 phút ) - Giờ Sửu sơ 3 khắc 15 phân.
Mang chủng - Sao Đẩu ( 7 độ 57 phút ) - Giờ Sửu sơ 2 khắc 11 phân.
* Mùi tướng.
- Hạ chí - Sao Nữ ( 1 độ 8 phút ) - Giờ Sửu sơ 1 khắc 18 phân.
Tiểu thử - Sao Nguy ( 3 độ 39 phút ) - Giờ Sửu sơ 2 khắc 3 phân.
* Ngọ tướng.
- Đại thử - Sao Thất ( 1 độ 42 phút ) - Giờ Sửu chính Sửu 3 khắc 5 phân.
- Lập thu - Sao Bích ( 0 độ 33 phút ) - Giờ Sửu chính 3 khắc 3 phân.
* Tị tướng.
- Xử thử - Sao Lâu ( 1 độ 31 phút ) - Giờ Dần sơ 2 khắc 8 phân.
- Bạch lộ - Sao Vị ( 0 độ 20 phút ) - Giờ Dần sơ 1 khắc 10 phân.
* Thìn tướng.
- Thu phân - Sao Tất ( 2 độ 51 phút ) - Giờ dần chính 1 khắc 10 phân.
Hàn lộ - Sao Sâm ( 0 độ 2 phút ) - Giờ Dần chính 3 khắc 1 phân .
Mão tướng.
- Sương giáng - Sao Tỉnh ( 2 độ 2 phút ) - Giờ Dần chính 1 khắc 9 phân.
- Lập đông - Sao Quỷ ( 1 độ 43 phút ) - Giờ Mão sơ 1 khắc 5 phân.
* Dần tướng .
Tiểu tuyết - Sao Liệu ( 6 phút 2 độ ) - Giờ Dần chính 3 khắc 12 phân.
Đại tuyết - Sao Dực ( 3 độ 9 phút ) - Giờ Mão sơ 2 khắc 10 phân.
Sửu tướng.
- Đông chí - Sao Dực ( 5 độ 38 phút ) - Giờ Mão sơ 0 khắc 10 phân.
- Tiểu hàn - Sao Chuẩn ( 2 độ 20 phút ) - Giờ Mão sơ 0 khắc 7 phân.
Nhị Thập Tứ Khí (24 tiết khí trong năm).
Nhị thập tứ khí gốc là do một khí. Lấy cả năm mà nói, thì chỉ có một khí. Lấy bốn mùa mà nói thì cũng chỉ là một khí phân thành bốn khí. Lấy 12 tháng mà nói thì cũng là một khí phân thành 6 khí. Cho nên 6 khí Âm, 6 khí Dương là 12 khí.
Lại trong 6 khí Âm, 6 khí Dương mỗi khí đều có đầu có cuối, nên lại chia thành 24 khí. Mỗi khí trong 24 khí lại có 3 ứng, cho nên lại chia thành 3 hầu. Như vậy có 72 hầu, mà chung quy vẫn là một khí. Từ một khí thành 4, thành 12, thành 24, thành 72, tất cả đều là phân đoạn của một khí mà thôi.
Thập Nhị Thần
Thập Nhị Thần là nơi mà các sao Đẩu Cương của Bắc Đẩu chỉ vào mỗi tháng. Đẩu Cương của Bắc Đẩu chỉ vào đâu thì nguyên khí của tháng ở tại đấy.
- Tháng Giêng, Đẩu Cương Bắc Đẩu chỉ Dần.
- Tháng Hai, Đẩu Cương Bắc Đẩu chỉ Mão.
- Tháng Ba, Đẩu Cương Bắc Đẩu chỉ Thìn.
- Tháng Tư, Đẩu Cương Bắc Đẩu chỉ Tị.
- Tháng Năm, Đẩu Cương Bắc Đẩu chỉ Ngọ.
- Tháng Sáu, Đẩu Cương Bắc Đẩu chỉ Mùi.
- Tháng Bảy, Đẩu Cương Bắc Đẩu chỉ Thân.
- Tháng Tám, Đẩu Cương Bắc Đẩu chỉ Dậu.
- Tháng Chín, Đẩu Cương Bắc Đẩu chỉ Tuất.
- Tháng Mười, Đẩu Cương Bắc Đẩu chỉ Hợi.
Gọi là Nguyệt Kiến vì nguyên khí của trời thì vô hình, nên cứ trông sao Bắc Đẩu chỉ vào đâu, thì biết nguyên khí ở đó.
Bắc Đẩu có 7 sao. Sao thứ nhất là Khôi, sao thứ năm là Hành, sao thứ bảy là Tiêu. Ba sao ấy gọi là Đẩu Cương. Như tháng Dần, thì buổi tối, sao Tiêu chỉ Dần; nửa đêm, sao Hành chỉ Dần; tảng sáng sao Khôi chỉ Dần. Các tháng khác cũng phỏng theo đó.
Thập Nhị Thứ
Thập Nhị Thứ là 12 vùng trời mà mặt trời, mặt trăng giao hội. Trong một năm mặt trời và mặt trăng gặp nhau 12 lần, nên gọi là 12 thứ.
- Tháng Tí, thứ là Huyền Hiêu.
- Tháng Sửu, thứ là Tinh Kỷ.
- Tháng Dần, thứ là Tích Mộc.
- Tháng Mão, thứ là Đại Hỏa.
- Tháng Thìn, thứ là Thọ Tinh.
- Tháng Tị, thứ là Thuần Vĩ.
- Tháng Ngọ, thứ là Thuần Hỏa.
- Tháng Mùi, thứ là Thuần Thủ.
- Tháng Thân, thứ là Thực Trầm.
- Tháng Dậu, thứ là Đại Lương.
- Tháng Tuất, thứ là Giáng Lâu.
- Tháng Hợi, thứ là Tưu Tí.
Thập Nhị Phân Dã
Tức là nơi Thần,Thứ ảnh hưởng tới. Ở trên trời có 12 Thần, 12 Thứ, thì ở dưới đất có 12 nước (dã), 12 châu.
Phàm Nhật Nguyệt giao hội, hay nhật thực, nguyệt thực, hay tinh thần (các sao) biến dị, cứ xem ứng vào phân dã, phân châu nào thì biết được cát hung ứng vào nơi đó ra sao.
Nhị thập bát tú tương ứng với những không phận, địa phận sau đây, ngoài ra còn chiếm một khoảng trời rộng hẹp khác nhau được định bằng những độ số sau đây:
Nơi sao Hư thấy đề 9o với chữ tiểu cường tức là hơn 9o.
Cộng các độ với nhau, ta được 365o, lại cộng với một chút «tiểu cường» ta sẽ có 365o ¼ của vòng Chu Thiên.
II/ THIÊN QUAN (Các vì sao trời)
I. TRUNG CUNG (các vì sao quanh Bắc Cực)
Ở Trung Cung, sao Thiên Cực sáng nhất. Đó là sở cư của Thái Nhất. Bên cạnh là 3 ngôi sao, gọi là Tam Công hay Tử Thuộc.
Phía sau, xếp theo hình cong, có 4 sao: sao phía sau cùng sáng nhất là Chính Phi, còn 3 sao kia cũng thuộc về hậu cung. Chung quanh có 12 sao hợp thành một đội cận vệ, gọi là Phiên Thần. Tất cả (4 chòm sao nói trên: Thiên Cực, Tử Thuộc, Tứ Phụ, Phiên Thần) là Tử Cung.
Phía trước xếp thẳng hàng với miệng Bắc Đẩu (le Boisseau) là 3 ngôi sao hợp thành một hình nhọn, đầu hướng về phía Bắc, lúc ẩn, lúc hiện, gọi là Âm Đứchay Thiên Nhất.
Phía tả Tử Cung có 3 sao gọi là Thiên Thương (cây giáo trời). Phía hữu có 3 sao gọi là Thiên Bảng (gậy trời dùng để đánh).
Phía sau có 6 sao, băng qua sông Ngân Hà đến tận chòm sao Doanh Thất, nên gọi là Các Đạo (đường treo).
Bắc Đẩu gồm 7 sao, đã được Thư Kinh đề cập đến khi nói rằng (vua Thuấn) quan sát tuyền ki và ống ngọc hành để điều chỉnh thất chính.
Sao Tiêu gần với sao Giác. Sao Hành dẫn tới chòm sao Nam Đẩu. Sao Khôi dựa vào chòm sao Sâm.
Nếu xem sao vào chập tối, sẽ thấy sao Tiêu Tử khoảng núi Hoa đến Tây Nam.
Nếu xem sao vào nửa đêm, sẽ dùng sao Hành làm chuẩn. Sao Hành ở giữa khoảng miền Trung Châu, giữa sông Hoàng Hà và sông Tế.
Buổi sáng nhìn sao Khôi. Sao Khôi ở giữa miền biển, núi Đại, và phía Đông Bắc.
Chòm sao Bắc Đẩu là xe trời. Nó vận chuyển ở trung ương, chỉ huy bốn phương, phân Âm Dương, định bốn mùa, điều hòa ngũ hành, chi phối mọi sự, chuyển hó`a thời tiết, định độ số trời.
Ở đầu sao Khôi có 6 sao xếp theo hình vuông, gọi là Văn Xương. Sao thứ nhất là Thượng Tướng, sao thứ hai là Thứ Tướng, sao thứ ba là Quí Tướng, sao thứ tư là Tư Mệnh (định vận mệnh), sao thứ năm là Tư Trung (coi về nội vụ), và sao thứ sáu là Tư Lộc (coi về tưởng thưởng).
Ở khoảng giữa nhửng sao Khôi Đẩu là nhà lao giam những bậc quí nhân.
Ở phía dưới sao Khôi có 6 sao xếp thành từng đôi một, gọi là Tam Năng (Tam Thai).
Nếu sao Tam Thai mà sáng đều, quân thần sẽ hòa hợp; nếu không sáng đều, quân thần sẽ gàng quải, xung đột.
Nếu sao Phụ mà sáng, thì các quan đại thần sẽ mạnh; nếu sao Phụ mà nhỏ thì đại thần nhát sợ và yếu.
Ở đầu sao Tiêu có hai sao: Một sao phía trong là Mâu, hay Chiêu Diêu; một sao phía ngoài là Thuẫn, hay Thiên Phong.
Ngoài ra, còn có 15 sao hợp thành một vòng tròn, cũng thuộc sao Tiêu, gọi là tiện nhân chi lao (lao tù của người hèn). Nếu sao ở giữa chòm mà sáng, thì tù nhân sẽ nhiều; nếu mờ thì tù nhân sẽ ít.
Nếu sao Thiên Nhất, Thiên Bảng, Mâu, Thuẫn mà lấp lánh nhiều và tỏa ra nhiều tia sáng, thì sẽ có giặc giã lớn.
II. ĐÔNG CUNG
(Bàn về 7 chòm sao: Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ)
Đông Cung Thanh Long có các chòm sao Phòng, Tâm.
(1) Tâm là Minh Đường. Sao lớn nhất là Thiên Vương (Antarès). Sao phía trước và sao phía sau nó là các sao con gái. Ba sao này không nên thẳng hàng nhau. Nếu thẳng hàng nhau, thì sao Thiên Vương sẽ sai lầm trong mưu tính.
(2) Sao Phòng là Phủ Khố, cũng gọi là Thiên Tứ (sao Tứ mã nhà trời).
Sao về phía Bắc nhất là con ngựa phía bên phải nhất của cỗ xe. Cạnh nó có hai ngôi sao gọi là Kiềm. Phía Bắc có một sao gọi là Hạt. Ở phía Đông Bắc có 12 sao, xếp thành hình cong gọi là Kì (cờ). Bốn vì sao giữa chòm sao Kì gọi là Thiên Thị. Sáu ngôi sao ở giữa gọi là Thị Lâu.
Nếu ở trong Thiên Thị mà có nhiều sao, thì dân chúng buôn bán phát tài. Nếu ít sao thì sẽ bị hư hao. Phía Nam chòm sao Phòng là Kị Quan.
(3) Phía tả sao Giác là sao Lý (Thiên Điền), phía hữu là sao Tướng (Thiên Môn).
Sao Đại Giác (Arcturus du Bouvier) là Thiên Vương đế đình. Mỗi phía cạnh sao Đại Giác đều có 3 sao như hình chân vạc, gọi là Nhiếp Đề. Nhiếp Đề chỉ thẳng vào miền sao Tiêu của Bắc Đẩu chi, vì thế gọi là Nhiếp Đề cách.
(4) Sao Cang là Sơ Miếu, chủ tật bệnh. Phía Nam và phía Bắc sao Cang có hai sao sáng gọi là Nam Môn.
(5) Sao Đê là Thiên Căn, chủ ôn dịch.
(6) Nhóm sao Vĩ gồm 9 sao. Nếu những sao này mà hoặc mờ hoặc sáng thất thường thì vua tôi sẽ lục đục bất hòa.
(7) Chòm sao Cơ còn gọi là Ngạo Khách, chủ khẩu thiệt. Nếu Hỏa Tinh phạm vào địa phận sao Giác, sẽ có chinh chiến. Nếu thấy sao Hỏa phạm vào không phận sao Phòng, Tâm, thì vua chúa cũng rất lo ngại.
III. NAM CUNG
(Bàn về Thái Vi viên và 7 sao Tỉnh, Quỉ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn; và Hiên Viên kỳ)
[Thái Vi viên]
Nam Cung Chu Điểu gồm có hai chòm sao tiêu biểu là Quyền và Hành. Hành tức là sân đình Thái Vi của Tam Quang.
12 sao xếp thành hàng vây quanh gọi là Phiên Thần. Phía Tây gọi là Tướng (võ), phía Đông gọi là Tướng (văn). Phía Nam có 4 sao gọi là Chấp Pháp. Ở giữa là Đoan Môn, hai bên là Dịch Môn. Trong cửa có 6 sao, gọi là Chư Hầu. Trong nữa, có Ngũ Đế Tọa.
Phía sau có một chòm sao dày, gồm 15 sao, gọi là Lang Vị. Cạnh đó có một sao lớn gọi là Tướng Vị (Lang Tướng).
Nếu mặt trăng và Ngũ Tinh vào vùng Thái Vi thuận chiều (tức là từ phía Tây lại), và ra thuận chiều, ta sẽ để ý chỗ chúng ra nơi đâu, nhà vua sẽ chém giết ở đó.
Nếu chúng mà vào ngược chiều (tức là từ phía Đông lại) và phạm vào Đế Tọa, thì biết rằng bầy tôi sẽ mưu loạn. Nếu Kim Tinh và Hỏa Tinh phạm vào Thái Vi thì lại càng tệ hơn nữa.
Phía Tây hàng sao Phiên Thần có 6 sao gọi là Thiếu Vi, chia thành Sĩ và Đại Phu.
[Hiên Viên Kỳ]
Chòm sao Hiên Viên. Hiên Viên tức là mình con rồng vàng. Trước nó có một ngôi sao lớn gọi là Nữ Chủ (Régulus). Nếu mặt trăng và Ngũ Tinh phạm vào chòm sao Quyền (Hiên Viên), thì hay và dở cũng y như là đối với chòm sao Hành.
[7 sao: Tỉnh, Quỉ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn]
(1) Chòm sao Đông Tỉnh chủ về nước. Phía Tây nó có một ngôi sao gọi là Việt. Phía Bắc sao Việt là sao Bắc Hà. Phía Nam sao Việt là sao Nam Hà.
(2) Chòm sao Dư Quỉ chủ sự cúng tế tổ tiên. Ở giữa chòm sao này thấy có vệt trắng, đó là Chất. Nếu sao Hỏa Tinh mà ở nơi các sao Nam Hà và Bắc Hà, thì sẽ xảy ra binh đao, mất mùa.
Như vậy nếu có đức, thì thấy [sao Hỏa] ở chòm sao Hành, muốn coi điềm thì xem [sao Hỏa] ở chòm sao Hoàng. Sao Hỏa mà ở nơi sao Việt thì sẽ thất trận; sao Hỏa ở nơi chòm sao Quỉ sẽ có sự tàn sát. Nếu sao Hỏa ở chòm sao Tỉnh, sẽ có tai họa.
(3) Sao Liễu là mỏ chim (Chu Tước) chủ về cây cỏ.
(4) Chòm sao Thất Tinh hay Cảnh là cổ chim (Chu Tước) chủ về những chuyện cấp thời.
(5) Trương hay Tố, là cái diều [chim], chủ bếp nước và yến tiệc.
(6) Dực là lông cánh, chủ về viễn khách.
(7) Chẩn là cỗ xe, chủ gió. Cạnh nó có một sao gọi là Trường Sa. Trường Sa thường không sáng. Nếu sáng thì cũng sáng tỏ như 4 vì sao khác trong chòm sao Chẩn.
Phía Nam sao Tỉnh có nhiều sao, gọi là Thiên Khố Lâu. Khố Lâu có 5 xe. Nếu chúng chiếu sáng, tăng thêm số sao, thì sẽ không có đủ chỗ để chứa xe và ngựa.
IV. TÂY CUNG
(Bàn về chòm sao Hàm Trì và 7 sao: Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm)
[Chòm sao Hàm Trì: le Cocher]
Tây Cung là Hàm Trì. Người ta còn gọi nó là Thiên Ngũ Hoàng hay Ngũ Đế Xa Xá (nhà chứa 5 xe của vua).
Nếu sao Hỏa vào đó, sẽ xảy ra hạn hán. Nếu sao Kim Tinh vào đó, sẽ xảy ra lụt lội.
Ở giữa có sao Tam Trụ. Nếu Tam Trụ không đủ 3 sao, sẽ xảy ra chiến tranh.
[7 sao: Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm]
(1) Sao Khuê cũng gọi là Phong Thỉ, chủ ngòi lạch.
(2) Sao Lâu chủ về quần chúng tập hợp.
(3) Sao Vị là kho trời. Phía Nam sao Vị có một chòm sao gọi là Quái Tích (đống cỏ khô).
(4) Sao Mão cũng gọi là sao Mao Đầu, là sao của rợ Hồ, chủ về tang tóc.
(5) Sao Tất cũng gọi là sao Hãn Xa (xe săn), chủ về giặc giã nơi biên thùy, hoặc săn bắn. Gần một vì sao lớn của chòm sao này, có sao Phụ Nhĩ. Nếu sao Phụ Nhĩ mà sáng, thì sẽ có những bầy tôi xàm loạn bên cạnh vua.
Giữa sao Mão và Tất có sao Thiên Nhai (đường trời). Phía Bắc nó là các nước thuộc Âm, phía Nam nó là các nước thuộc Dương.
(6) Sâm là Bạch Hổ. ba sao thẳng hàng gọi là Hành Thạch. Dưới có 3 sao hình nhọn, gọi là Phạt, chủ về trảm quyết. Bốn sao phía ngoài là hai vai, hai đùi trái phải.
Ba sao xếp thành hình nhọn gọi là Trủy Huề. Trủy Huề là đầu hổ, chủ về quân lữ và bảo vệ đất đai. Ở dưới chúng có 4 sao gọi là Thiên Sí.
Dưới sao Thiên Sí có sao Thiên Thỉ. Nếu có màu vàng thì tốt; nếu có màu trắng thì hung.
(7) Ở phía Tây chòm sao Chủy có các sao hợp thành các đường khúc khuỷu, từng chòm sao một. Một chòm gọi là Thiên Kỳ, một chòm gọi là Thiên Uyển, một chòm gọi là Cửu Du.
Ở phía Đông các sao ấy có một sao sáng lớn gọi là sao Lang. Nếu sao Lang chiếu sáng hay thay mầu, sẽ có nhiều đạo tặc.
Ở dưới sao Lang có 4 sao gọi là Hồ, chiếu thẳng vào sao Lang.[22]
Đối ứng với sao Lang có một sao lớn gọi là Nam Cực Lão Nhân.[23] Khi sao này sáng tỏ, sẽ bình trị. Nếu không thấy nó, sẽ có binh biến. Thường người ta hay ra Nam giao (cánh đồng phía Nam) để xem sao này vào ngày Thu Phân.
Nếu sao Phụ Nhĩ mà tiến gần với sao Tất, sẽ có binh biến.
V. BẮC CUNG
(Nói về các sao: Đẩu Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích)
Bắc cung gọi là Huyền Vũ, đặc biệt tượng trưng bởi hai sao Hư và Nguy.
(1) Nguy chủ về mái nhà.
(2) Hư chủ về than khóc. Ở phía Nam có một chòm sao gọi là Vũ Lâm Thiên Quân. Phía tây chòm sao đó có chòm sao Lũy, nhiều khi còn gọi là Việt. Cạnh đó có một sao lớn gọi là Bắc Lạc (Fomalhaut du Poisson Austral). Nếu Bắc Lạc mà mờ, thì sẽ hao binh. Nếu sao Bắc Lạc mà không tỏa sáng đủ, hay nếu ngũ tinh mà phạm vào chòm sao Bắc Lạc hoặc Vũ Lâm Thiên Quân, thì sẽ có chuyện hưng binh.
Thủy, Hỏa, Kim Tinh mà phạm vào thì lại càng tệ. Hỏa Tinh phạm, sẽ hao binh. Thủy Tinh phạm, quân sĩ sẽ phải lo lường. Thổ và Mộc Tinh đóng vào, quân sĩ sẽ gặp may.
Ở phía Đông chòm sao Nguy có 6 sao gọi là Tư Không (đúng ra phải gọi là Tư Mệnh).
(3) Chòm sao Doanh Thất là Thanh Miếu, là Ly Cung, hay Các Đạo. Ở giữa giải Ngân Hà có 4 sao gọi là Thiên Tứ. Ở cạnh nó có một sao gọi là Vương Lương.[24]Khi Vương Lương mà đánh ngựa, thì binh mã sẽ chật đồng. Gần đó có 8 sao gọi là Thiên Hoàng.
Cạnh Thiên Hoàng có Giang Tinh. Nếu sao đó mà giao động, thì người ta phải lội sông.
Chử Cửu là 4 sao phía Nam sao Nguy. Khi sao Bào Qua bị hànmh tinh xanh hay đen đóng vào, thì cá và muối sẽ đắt.
(4) Chòm sao Nam Đẩu là miếu mạo. Phía Bắc nó có chòm sao Kiến Tinh, và Kiến Tinh có hình lá cờ.
(5) Sao Khiên Ngưu chủ về vật hi sinh. Phía Bắc nó có chòm sao Hà Cổ. Sao lớn là Thượng Tướng, hai sao tả hữu là Tả Tướng và Hữu Tướng.
(6) Ở phía Bắc Vụ Nữ có sao Chức Nữ. Chức Nữ là cháu gái trời.
NHẬT NGUYỆT VÀ NGŨ TINH
(Mặt trời, mặt trăng và 5 hành tinh: Kim. Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ)
* Mộc Tinh (Tuế Tinh: Jupiter)
Người ta quan sát sự vận hành của mặt trời, mặt trăng để định xem Tuế Tinh đi thuận hay nghịch ra sao.
Tuế Tinh (Mộc Tinh) ứng với phương Đông, mùa Xuân, và các ngày Giáp Tí.
Nếu làm điều trái lẽ, Tuế Tinh sẽ gia phạt. Khi Tuế Tinhđi nhanh hay chậm, nó sẽ định vận mệnh quốc gia tương ứng với cung nó đang ở.
Nước nào mà nó đang chiếu vào, thì không thể bại trận, trái lại có thể đi chinh thảo.
Tuế Tinh đi nhanh quá thì gọi là Doanh; đi chậm quá thì gọi là Súc. Nếu đi nhanh quá (doanh) thì quốc gia tương ứng sẽ có chiến tranh và suy yếu; nếu nó đi chậm quá (súc) thì quốc gia tương ứng sẽ bị lao lung, tu7ớng soái sẽ bị chết.
Nếu Tuế Tinh mọc đúng chỗ, lại hội cùng ngũ tinh, thì quốc gia tương ứng sẽ có thể dựa theo lẽ phải mà được Thiên hạ.
Xin xem tiếp bài 28 - dienbatn .
Comment