hon-vua-quang-trung-noi-ve-tu-dao
Hồn Vua Quang Trung nói về tu đạo
- bởi tamthuc --
- 02/08/2012
Chúng tôi vừa nhận được một bài thơ giáng bút nhân danh Hồn Vua Quang Trung. Đây là điều đặc biệt, vì trước nay Ngài chưa từng đọc bài nào cho bà Phạm Thị Xuyến ghi. Đáng chú ý là trong bài này có đưa lại lời của một vong sư, do tu sai nên sau khi chết đã bị tù hồn…
HỒN VUA QUANG TRUNG NÓI VỀ TU ĐẠO
(Ngày 2 tháng 1 năm 2011)
1. Lời Vua ban là bàn với Nước,
Lời Vua ước là được cho Đời.
Ước cho Đất nước muôn nơi,
Lo cho việc Đất, việc Trời nước Nam.
Lo việc tìm Mộ tới sang
Cho tròn cho vẹn, cho an Mộ phần.
Cho Đất nước được Hồng ân,
Cho Đời muôn thuả phúc phần mai sau.
Cho dòng Tộc Nước dài lâu,
Cho muôn vàn Thế hệ sau nối dòng.
Đời đời mãi nước Nam Hồng,
Có một Lịch sử Tiên Rồng cho ta.
Cho Dân trăm Họ Nước nhà,
Cho Đời phồn thịnh, thái hoà muôn năm.
2. Vua muốn ban lời trối trăng
Của một người đã vĩnh hằng từ lâu.
Hồn người sở nguyện ý cầu,
Hồn người mong ước từ lâu việc Thần.
Hồn người cầu nguyện ân cần,
Cầu Thần Đất nước độ phần Âm – Dương.
Hai ngả cách xa đoạn trường,
Nhưng hồn vẫn hướng về Dương Nước nhà.
Có một người sư tu ra,
Theo đạo Phật giáo Nước nhà từ xưa.
Người vong là Thích Đàm Vân,
Người vong khổ hạnh muốn thưa với Thần.
Muốn thưa với nước Nam trần,
Rằng người tu đạo không phần ích chi.
Sống đời khổ hạnh quy y,
Ở chùa quét lá, ngày thì tụng kinh.
Khi chết vào ngục Âm mình,
Hồn phải tù ngục, cực hình gian nan.
Hồn phải tội với Thiên Đàng,
Tội với Phật Thánh, Thần Quan Nước nhà.
Tội với Tiên tổ Ông bà,
Những người sư chết phải là tù vong.
Bởi vì làm việc bất công,
Làm việc bất nghĩa với Ông Cha mình.
Làm việc không đúng thực tình,
Không làm đúng Luật Thiên đình nước Nam.
Làm việc tu cho ngoại sang,
Không tu cho nước Việt Nam tý gì.
Hỏi tu chùa có ích chi?
Hàng ngày kinh tụng ích gì Nước, Dân?
Hỏi bao công sức của trần
Không đem lại lợi ích phần nước Nam?
Không biết Người có công Vàng,
Không biết Thánh nước Việt Nam thế nào.
Không biết Cha Mẹ Thiên cao,
Không biết Tổ Nước thế nào, không hay.
Không biết Thần Quan Nước này,
Không biết Liệt sĩ xưa nay giúp Đời.
Chỉ đi gõ mõ cầu người,
Không công – trịnh trọng thỉnh mời lên ban.
Không biết Thánh đã hạ màn
Mười năm không có trên ban phật người.
Chỉ có Liệt sĩ ngồi cười
Khi sư sãi với dân đời tụng kinh!
Thật là lỗi Đạo Thiên đình,
Lỗi người tu đạo trá hình xưa nay.
Sống tu sai Đạo Nước này,
Sai Đạo Tổ Nước, sai nay Đạo Trời.
Chết cực khổ cho vong đời,
Người tu sai Đạo chết thời khổ vong.
3.Hãy nghe dòng Tộc Tổ Tông,
Hãy tu theo Đạo Cha Ông Nước nhà.
Nước ta có Phật trên Toà,
Ba ngôi Chính giác, chính là Ba Ông.
Ba Ông Phật Tổ Trúc Lâm,
Phật Tổ thứ Nhất có công tu trì.
Tu được đắc Đạo quy y,
Ông được Trời tặng, Trời ghi công trần.
Ông được Nhà Trời ban phần
Phật Tổ thứ Nhất của phần nước Nam.
Được đứng Nhất, được song hàng
Thích Ca, Bồ Tát phải hàng song song.
Hơn bảy trăm năm, Phật Ông
Nhân Tông đứng Trưởng, có công nhất Toà.
Dân ta không biết, la đà
Theo sư, coi rẻ Phật nhà Ba Ông.
Người tu theo đạo cuồng ngông,
Không công – trịnh trọng bệ Rồng ngôi cao.
Phạm Luật Trời Đất ban vào,
Người trần mắt thịt ai nào biết chi.
Vì đi nghe kẻ ngu si,
Không ai nghe được Trời ghi công Thần.
Trần không có Luật Trời phân,
Không biết việc Thần ai thấp, ai cao.
Hãy nghe Trời đọc Luật vào
Vua Quang Trung được đọc trao Luật Trời.
Nước Việt Nam có một Người
Thành Tiên, đã được Lệnh Trời ban ra.
Là Phật Trời, là Tiên Sa
Là Phật trên Toà, cao nhất trên Thiên.
Là Hồ Chủ tịch thiêng liêng,
Là đức Ngọc Phật ở trên Đời này.
Ở nước Việt Nam xưa nay,
Từ nay ở khắp cả nay Hoàn cầu.
Ở khắp Trái đất một mầu,
Cho toàn Nhân loại sở cầu việc Thiên.
4. Còn Ba Vị được Phật riêng,
Cho riêng từng nước có riêng Phật nhà.
Thích Ca, Phật Bà, Nhân Tông
Ba Phật ngang chức, ngang công, ngang thờ.
Không ai hơn ai bây giờ,
Và cho mãi mãi ngôi thờ ngang nhau.
Nhưng không ai được đi đâu,
Chiếm ngự cung lầu, chùa lớn, nhỏ, to.
Phật nước nào, nước ấy lo
Phật không được phép tự do ra, vào.
Đi đâu có Lệnh Trời cao,
Đi họp bàn vào có giấy phép ghi.
Cũng như Dương trần một khi,
Đi đâu phải có nội quy xuất hành.
Có giấy xuất cảnh rõ rành,
Có Lệnh điều hành ai được đi đâu.
Âm có Âm, Dương có Dương
Phải có Luật Lệnh Thiên sâu, Hạ giới.
Đây là Sử Trời tiến tới,
Hai Nghìn lẻ Một (2001) đã có thông qua.
Đã có văn bản Trời ra,
Cho Phật các nước, cho là Thần Quan.
Phật Thần Toàn cầu quy hàng,
Theo Đạo Trời giáng, Trời ban điều này.
Chỉ có Trần chưa hiểu nay,
Còn các phật các nước này đã thông.
Không ai thắc mắc chi chung,
Họ đã về nước, họ không phàn nàn.
Chỉ có Trần không hiểu sang,
Cứ làm như cũ, rõ ràng là sai.
5. Nay Vua đọc lời ban bài,
Cho Dân, cho Nước, cho người đi tu.
Tu phải hiểu được công phu,
Tu phải hiểu được chữ tu cho mình.
Tu cho Non nước, gia đình
Tu để bất bình, tu vậy tu chi?
Tu phí công, tu làm gì?
Tu hại Dân Nước, tu đi sai đường.
Tu phản lại Luật Thiên vương,
Tu phạm Luật Đạo, chủ trương Thánh Thần.
Tu không ích Nước, lợi Dân
Tuyên truyền sách đạo không phần của ta.
Tu theo người ngoài la đà,
Không cầu dòng Tộc Quốc gia của mình.
Không ca ngợi Đảng quang vinh,
Không cầu Phật Thánh Thần linh Nước nhà.
Không theo Tiên Tổ Ông Bà,
Chết gửi chùa vội, bỏ nhà cúng cơm.
Thật là lỗi Đạo Thiên vương,
Sống theo phật họ, chết nương ăn mày.
Hồn đi Tây Trúc, phương Tây
Hồn bỏ Nước này, bỏ Tổ bỏ Tông.
Thật là lỗi Đạo Cha Ông,
Đạo Tổ Đền Hùng, Đạo nước Âm Thiên.
Đạo Trời cho một Đạo truyền,
Đạo tu cho Nước, Dân yên đời dời.
Tu làm Cách mạng sáng ngời,
Tu cho bầu trời nước Việt Nam ta.
Tu cho ích Nước, lợi nhà
Tu cho nhân quả Nước ta trưởng thành.
Thờ Tổ Trời Đất đích danh,
Thờ Tổ Đất nước ngọn ngành đầu đuôi.
Thờ Gia tiên – Tổ của người,
Nhà ai nhà ấy có người Tổ riêng.
Đó là dòng Tộc thiêng liêng,
Chùa đền thờ Phật Thánh riêng Nước nhà.
Không thờ phí công la đà,
Luật thờ thay đổi cho là Nước, Dân.
Đừng thờ tốn của công trần,
Thờ sai Luật Đạo, phí phần thờ sai.
Các chùa thờ trong, thờ ngoài
Hoàn toàn sai Luật, thờ sai Luật Trời.
Bài này ghi rõ Luật Trời,
Dẫn chứng vong đời sai Luật, khổ vong.
Sống sai, chết phải lưng còng
Tù gông mạt kiếp, khổ vong tu chùa./.
(Bà Phạm Thị Xuyến ghi theo lời Hồn Vua Quang Trung đọc tại đền Hoà Bình, ngày 28 tháng 11 năm Canh Dần)
TAMTHUC
Comment