khu-rung-ma-va-nhung-cau-chuyen-ki-bi
Khu rừng ma và những câu chuyện kì bí
- bởi tamthuc --
- 15/12/2014
Vùng đất thuộc xã Măng Ri xa xôi của huyện Tu Mơ Rông, Kon Tum là những khu rừng xanh tốt, âm u, rậm rạp mà người dân địa phương nơi đây gọi là những khu “rừng ma”. Đặt chân đến khu “rừng ma” này, nhiều câu chuyện kỳ bí đã được hé mở.
Khám phá… khu “rừng ma”
Chúng tôi tìm đến nhà ông Lâm Quang Huy, Phó chủ tịch xã Măng Ri lúc trời xế chiều. Cùng đi với chúng tôi có Chủ tịch huyện Tu Mơ Rông, ông Vũ Tuấn. Nghe Chủ tịch huyện giới thiệu về việc tìm hiểu rừng ma, ông Huy miễn cưỡng dẫn chúng tôi ra khu “rừng ma” cao chót vót nằm lưng chừng ngọn núi Ngọc Linh quanh năm mây mờ che phủ. Phải mất hơn 1 tiếng đồng hồ chiếc xe Ford Everest của Chủ tịch huyện mới leo đến lưng chừng núi, nơi có “rừng ma” bí ẩn với quãng đường xa chưa đầy 15km.
Ông Huy chỉ vào “rừng ma” kể: “Đây là rừng ma của thôn Long Hy 1 và Long Hy 2, thuộc xã Măng Ri. Người Xơ Đăng ở Tu Mơ Rông, Kon Tum quan niệm, sống chết là thuận theo quy luật của tự nhiên. Con người cũng như cái cây, con thú trong rừng, có sinh ra, lớn lên thì cũng phải chết đi. Sống được rừng che chở, được rừng cho cái ăn, cái mặc, ngôi nhà để ở, con nước để uống, nên khi chết chỉ trở lại với rừng, sống một thế giới khác với rừng mà thôi. Khi chết, người Xơ Đăng sẽ chôn người thân dưới những tán cây rừng to như một lời khẩn nguyện, mong thần rừng che chở cho linh hồn người chết. Vậy nên, chốn ấy như linh hồn của dòng tộc vậy”.
Những ngôi mộ hiện đại của người Xơ Đăng
Theo tục lệ, phụ nữ không được tham gia vào việc chôn cất, cho dù người chết có là cha, chồng hay con; lại càng không được bén mảng vào “rừng ma” trong bất cứ hoàn cảnh nào. Những nhà không có con trai, chỉ toàn phụ nữ, thì bà con trong thôn bản nhận nhiệm vụ chôn cất. Sau khi xong việc, ngoài những người đi chôn sẽ tắm suối, uống rượu ngoài rừng, số còn lại trong làng tụ tập ở nhà người chết, mổ heo, gà hoặc bò, ăn uống suốt 3 ngày. Theo đó, họ phải vui vẻ để người đã khuất “biết” người sống vẫn sinh hoạt bình thường, thậm chí vui như hội dù không có họ, để “con ma” không vì tiếc thương mà quay trở lại làng. Và người chết, phải hoàn toàn bị xóa ra khỏi ký ức, không bao giờ được nhắc lại, không một ai nghĩ đến chuyện vào viếng thăm. Và đối với họ, “con ma rừng” trong “rừng ma” đáng sợ gấp ngàn lần con voi, con cọp…
Dòng sông Sê Pôn chia đôi đường biên giới Việt – Lào, bên kia dòng Sê Pôn, những cánh rừng già hoang vu thuộc tỉnh Atopư (Lào) và Ratanakiri (Campuchia) trải dài hút tầm mắt.
Bên cạnh khu “rừng ma” là bạt ngàn rừng thông mọc xanh cao vút. Trời chạng vạng, những bầy quạ đen đậu vít cong ngọn thông. Nghe tiếng vỗ tay, bầy quạ cất cánh bay lượn kín bầu trời và cất lên những tiếng kêu rợn gáy. Giữa chốn âm u đại ngàn Tây Nguyên hùng vĩ, chúng tôi liều mình bước vào nghĩa địa. Một cảm giác ớn lạnh chạy qua người. Dưới tán rừng nguyên sinh, ở đây cây thông, lồ ô, vả… nhiều vô kể, nhiều cây bị gãy gập sau cơn bão số 9 năm 2009 vẫn còn nằm ngổn ngang. Chúng tôi luồn sâu vào bên trong, dưới những lớp lá dày hơn 20cm, chân tôi bỗng giẫm phải cái gì đó nghe khậc một tiếng ớn lạnh, vạch đám lá ra, bên dưới là mảnh ghè rượu, mấy cái chén ăn cơm, gùi, balô, đèn pin, chai lọ và có cả… xương người.
Những hủ tục lạ kỳ
Đi vào “rừng ma” trong không khí âm u khiến chúng tôi mất phương hướng, trước mắt chúng tôi hiện lên hàng chục quan tài được đặt trên những giá gỗ với bốn cây cọc, cách mặt đất 0,5-1m… Ngoài các quan tài bằng gỗ có cả những quan tài được làm bằng nhôm, vỏ bom bi, thùng xăng gò hàn thành những quan tài rất đẹp. Phía trên quan tài được lợp mái tôn hoặc cây lồ ô, xung quanh đầy rẫy những vật dụng mà người chết được “chia phần”, một số “con ma” còn được chia cả heo, gà sống buộc vào chân cột quan tài. Có nhà còn chia cả radio, bàn ghế, xe đạp, vàng bạc… Ở những chiếc quan tài bị bục ra, thấy mờ mờ trong đó những lớp xương. Chúng tôi cắt rừng, đi sâu vào trong chỉ thấy rải rác một số ghè rượu, xoong nồi, dao rựa, phích nước… đã bị đập vỡ, bẻ cong bên cạnh dấu tích những quan tài không còn hình thù.
Trở về nhà Phó chủ tịch Huy khi trời đã khuya, ông Huy mang ghè rượu và một xâu thịt nai khô treo ở nóc bếp ra mời khách. Đêm càng về khuya, tiết trời mưa phùn càng trở nên rét hơn. Mặc dù nằm ở cực bắc Tây Nguyên, nhưng Tu Mơ Rông có khí hậu khác với tỉnh Kon Tum, 4 mùa đều mưa và rét. Bên bếp lửa cháy bập bùng giữa nhà sàn, ông Huy chậm rãi kể chuyện “rừng ma” cho tôi nghe.
Ông Huy kể thêm, người Xơ Đăng có sự đối xử bình đẳng giữa nam và nữ, không phân biệt giữa con riêng và con chung, con đẻ và con nuôi, con của mình và con của anh em họ. Quan hệ làng bản khá đoàn kết, có tục kết nghĩa với người cùng tuổi hoặc cùng tên. Con cháu cùng họ không được phép kết hôn với nhau. Trai gái lớn lên, sau khi đã cưa răng theo phong tục (ngày nay ít người còn theo phong tục này – PV) được tìm hiểu, yêu nhau. Sau lễ cưới, đôi vợ chồng ở luân chuyển với từng gia đình mỗi bên ít năm, rất ít trường hợp ở hẳn một bên.
Theo tục của người Xơ Đăng, sau khi chôn cất người chết xong, người thân trong gia đình không bao giờ quay lại ngôi mộ đó. Hàng năm, mỗi khi đến lễ mang nước hoặc tết lúa mới, khi con lợn trong chuồng, con dê trên rẫy đã lớn, người Xơ Đăng sẽ tổ chức cúng ma để tưởng nhớ đến người thân đã mất. Việc cúng bái của người Xơ Đăng cũng không cầu kỳ.
Trái ngược với việc cúng bái đơn giản, nơi chôn người chết (rừng ma) đối với người Xơ Đăng là vô cùng linh thiêng, với nhiều điều cấm kỵ nghiêm ngặt. Theo già làng A Mộc ở xã Tu Mơ Rông, huyện Tu Mơ Rông thì người Xơ Đăng suốt cuộc đời gắn với rừng, nên họ xem các khu “rừng ma” là một phần tài sản của mình, không ai nỡ chặt phá. Nếu gia đình, dòng họ hay ai đó bên ngoài có việc gì cần đến gỗ thì phải xin phép người đứng đầu họ. Sau đó vị này sẽ đứng ra làm lễ cúng. Nếu nhà nào giàu thì giết mấy con bò, con trâu, còn nghèo thì phải có gà trống để cúng thần mới được vào khai thác.
Trong số các lễ cúng, lễ hội truyền thống của người Xơ Đăng, lễ đâm trâu được tổ chức long trọng nhất, đông vui nhất. Người Xơ Đăng thích hát múa, tấu chiêng cồng, chơi đàn, kể chuyện cổ. Đàn ông không chỉ có tinh thần thượng võ, mà còn tài nghệ trong kiến trúc, điêu khắc và hội họa, tạo nên những sản phẩm tiêu biểu, đó là ngôi nhà rông và cây nêu trong lễ đâm trâu. Mỗi làng người Xơ Đăng đều có nhà rông, nóc và mái được tạo dáng như cánh buồm lớn hoặc lưỡi rìu khổng lồ ngửa lên trời. Có hình chim chèo bẻo hay hình sừng thú chót vót ở hai đầu đốc. Đây cũng là lúc người Xơ Đăng tổ chức cúng để tưởng nhớ tới người đã khuất.
Người Xơ Đăng quan niệm rằng, ngôi mộ của người chết là chốn linh thiêng, không ai được đào bới, cải táng. Hôm vào “rừng ma”, chúng tôi bắt gặp hàng trăm ngôi mộ bị mưa rừng xói lở hoặc bị thú đào bới tanh bành. Già làng A Mộc giải thích: “Biết những ngôi mộ của bà con mình bị xói lở nhưng dân bản cũng không thể đắp lại. Luật ở bản đã quy định rồi, để người sống được yên không ai được dọn dẹp, xây dựng gì ở phần mộ đó cả”.
Ông Huy giải thích: “Trước năm 2000 thì vẫn còn tục táng treo, nhưng từ đó đến nay bỏ hẳn rồi. Cán bộ huyện xuống họp với dân làng, phân tích cho bà con hiểu làm như vậy mất vệ sinh môi trường lắm! Bà con nghe theo nên từ đó đến bây giờ không ai còn dám táng treo như ngày xưa nữa!”.
Theo Hữu Thắng – Duy Phạm
Năng lượng mới
Comment